Sunday, 6 June 2021

Dự thảo quy định cho vay đặc biệt: Lấy từ túi người này trả cho người kia? (Bài đăng trên KTSG, 6/6/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/td/316915/du-thao-quy-dinh-cho-vay-dac-biet-lay-tu-tui-nguoi-nay-tra-cho-nguoi-kia.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang dự thảo thông tư quy định về cho vay đặc biệt từ NHNN, Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam, Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam, và tổ chức tín dụng (TCTD) khác đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt. Lãi suất cho vay đặc biệt là lãi suất ưu đãi đến mức 0%.

Đáng chú ý trong dự thảo thông tư trên là quy định cho vay đặc biệt từ các tổ chức nói trên, ngoài NHNN.

Trước tiên, xét về cho vay đặc biệt của Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam. Tổ chức này cho vay đặc biệt hỗ trợ thanh khoản với TCTD khi TCTD mất khả năng chi trả trong thời gian TCTD được kiểm soát đặc biệt. Tương tự, Bảo hiểm Tiền gửi cho vay đặc biệt với công ty tài chính, quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô có nguy cơ mất khả năng chi trả. Bảo hiểm Tiền gửi cũng cho vay đặc biệt để hỗ trợ phục hồi với công ty tài chính và quỹ tín dụng nhân dân, tổ chức tài chính vi mô theo phương án phục hồi đã phê duyệt.

Việc cho vay các đối tượng như trên lẽ ra không phải là chức năng và nhiệm vụ của Bảo hiểm Tiền gửi. Nhưng nếu NHNN đã muốn như vậy thì hãy coi đó là chức năng, nhiệm vụ bổ sung của nó. Điều đáng  nói ở đây là, nguồn tiền cho vay đặc biệt của Bảo hiểm Tiền gửi là từ Quỹ dự phòng nghiệp vụ của nó, chứ không phải là nguồn tái cấp vốn từ NHNN như lẽ thông thường cần phải có nếu NHNN muốn Bảo hiểm Tiền gửi đảm đương thêm/hộ những chức năng và nhiệm vụ mà lẽ ra là của NHNN.

Cụ thể hơn, Quỹ dự phòng nghiệp vụ của Bảo hiểm Tiền gửi được hình thành từ các nguồn sau: Tiền thu phí bảo hiểm tiền gửi hàng năm; Thu nhập từ hoạt động đầu tư nguồn vốn tạm thời nhàn rỗi; Các khoản tiền bảo hiểm không có người nhận theo quy định; Số tiền còn lại (nếu có) từ việc thanh lý tài sản của tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi theo quy định; Chênh lệch thu chi tài chính còn lại hàng năm sau khi trích lập Quỹ đầu tư phát triển và Quỹ khen thưởng, phúc lợi theo quy định; và Thu nhập từ các khoản cho vay đặc biệt đối với các tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt.(1)

Như vậy, theo quy định, Quỹ dự phòng nghiệp vụ của Bảo hiểm Tiền gửi hoàn toàn không có nguồn thu/bổ sung, cấp phát từ NHNN. Nguồn thu chính của nó là từ tiền thu phí bảo hiểm do TCTD nộp. Do đó, khi Bảo hiểm Tiền gửi cho vay đặc biệt đối với TCTD thì Quỹ dự phòng nghiệp vụ của nó sẽ hao hụt tùy theo mức độ cho vay đặc biệt này. Và như vậy cũng có nghĩa là nguồn tiền có sẵn để đề phòng và chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền sẽ hao hụt tương ứng.

Đó là chưa kể thiệt hại thông thường cho Bảo hiểm Tiền gửi (không xét đến chuyện TCTD được Bảo hiểm Tiên gửi cho vay nhưng không có khả năng sống sót, dẫn đến mất vốn), khi phải cho vay với lãi suất ưu đãi đến 0% so với nếu tiền trong Quỹ này được đầu tư vào các sản phẩm khác như trái phiếu Chính phủ, tuy lãi suất cũng thấp nhưng còn cao hơn nhiều so với lãi suất 0%.

Dẫu quy định hiện thời (trong Thông tư 20/2020/TT-BTC) yêu cầu Bảo hiểm Tiền gửi cho vay đặc biệt phải đảm bảo nguyên tắc không được làm ảnh hưởng đến khả năng chi trả bảo hiểm tiền gửi cho người gửi tiền, nhưng vấn đề là làm sao xác định chỉ được cho vay bây nhiêu và bây nhiêu cần phải giữ lại trong quỹ để phòng trường hợp hữu sự, và làm sao biết được là khi hữu sự thì con số đó có đủ để chi trả cho người gửi tiền mà không bị vỡ quỹ?

Trong khi đó, hạn mức của việc chi trả tiền bảo hiểm tiền gửi – sứ mệnh chính của Bảo hiểm tiền gửi – thì vẫn còn rất thấp; cơ quan chức năng vẫn còn đắn đo chuyện tăng hạn mức này. Và thực tế là sau nhiều năm thì hạn mức này mới chỉ được điều chỉnh tăng từng bước, gần đây nhất là 75 triệu đồng (năm 2017), lên mức... đề xuất hồi năm 2020 là 125 triệu đồng (không rõ bao giờ sẽ thành thật), mặc dù ai cũng nhận thức rõ rằng hạn mức cao hơn là một sự đảm bảo tốt hơn, một sự cam kết mạnh mẽ hơn của Chính phủ để bảo vệ quyền lợi của người gửi tiền.    

Tất nhiên là nếu trường hợp xấu như vỡ quỹ của Bảo hiểm Tiền gửi có xảy ra thì NHNN chắc sẽ phải can thiệp và hỗ trợ chứ không thể bỏ mặc nó tự xoay xở. Nhưng nếu là vậy thì sao NHNN không quy định thêm trong dự thảo rằng NHNN sẽ tái cấp vốn cho Bảo hiểm Tiền gửi khi cần? Nhưng nếu quy định thêm như vậy thì rốt cuộc NHNN đâu cần sự tham gia của Bảo hiểm Tiền gửi? Nói cách khác, vẫn chưa thấy có lý do hợp lý để đưa Bảo hiểm Tiền gửi vào trong dự thảo thông tư này.

Tương tự như vậy khi xét đến sự tham gia của Ngân hàng Hợp tác xã Việt Nam trong cho vay đặc biệt với TCTD. Nguồn cho vay đặc biệt lấy từ Quỹ bảo đảm an toàn hệ thống quỹ tín dụng nhân dân – cũng được hình thành tự phí trích nộp của Ngân hàng Hợp tác xã và các quỹ tín dụng nhân dân thành viên, chứ không phải từ NHNN. 

Và cũng như vậy là việc TCTD khác cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt. Nguồn vốn cho vay đặc biệt cũng là của riêng của TCTD cho vay đặc biệt mà không thấy nói gì đến trách nhiệm bồi thường, bổ sung, bù đắp của NHNN đối với TCTD cho vay.

Tóm lại, NHNN cần quy định rõ nếu Bảo hiểm Tiền gửi, Ngân hàng Hợp tác xã, và các TCTD khác có tham gia cho vay đặc biệt theo chỉ đạo của NHNN thì nguồn vốn cho vay phải là từ NHNN mà không được động chạm gì đến nguồn vốn của riêng các tổ chức này, để đảm bảo chúng hoạt động bình thường đúng với sứ mệnh và chức năng mà chúng được tạo ra. Ngoài ra, cũng cần quy định rõ khi nào, trong hoàn cảnh nào thì cần sự tham gia của những tổ chức này vào việc cho vay đặc biệt, mà không phải là NHNN trực tiếp đảm trách theo đúng chức năng mà luật pháp quy định cho NHNN.

(1) http://www.div.gov.vn/Default.aspx?tabid=296&CtrName=detail&CatID=18&ArticleId=8007


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).