Monday, 7 June 2021

Tiền mã hóa và sự 'chia rẽ' của các ngân hàng (Bài đăng trên KTSG, 6/6/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/316965/tien-ma-hoa-va-su-chia-re-cua-cac-ngan-hang.html

Hiện nay các ngân hàng thương mại trên thế giới đang có cái nhìn trái ngược nhau về bitcoin và các tiền mã hóa altcoin khác. Trong khi một số nhìn nhận tiền mã hóa là kẻ phá bĩnh trong ngành, những ngân hàng khác thì cho rằng chúng là cái neo tiềm năng cho thị trường, hoặc cả hai. Sự phân chia quan điểm này xuất phát từ sự biến động mạnh về giá của bitcoin dẫn đến việc áp đặt các quy chế mới lên nó. Đồng thời, sự biến động mạnh này cũng làm cho việc mua bitcoin và thanh toán bằng thẻ tín dụng cũng rất rủi ro cho các ngân hàng, bởi giá trị các khoản mua này trong tương lai có thể sẽ không còn đủ lớn để trả nợ tiền mua qua thẻ tín dụng.

Nhưng điều trên không có nghĩa là không có ngân hàng nào chấp nhận bitcoin. Nó cũng không có nghĩa là các ngân hàng đã không tìm cách giải quyết vấn đề này, cũng như không tự mình mua bitcoin trong cơn sốt bitcoin để cho phép họ chấp nhận thanh toán bằng bitcoin. Sàn Coinbase báo cáo rằng một số mạng thẻ tín dụng lớn đã thay đổi mã phân loại hàng hóa (MCC) đối với việc mua tiền số để các ngân hàng phát hành thẻ tín dụng có thể tính phí bổ sung – có thể lên tới 23,99% – ngoài phí giao dịch trên sàn.

Trên thực tế, đã có hàng chục ngân hàng chấp nhận bitcoin. Trong số này phải kể đến những cái tên như Goldman Sachs, Morgan Stanle và National Bank of Canada. Chẳng hạn, Goldman Sachs đã cho ra mắt bộ phận kinh doanh altcoin và chào bán các sản phẩm altcoin từ năm 2018, còn Morgan Stanley là ngân hàng đầu tiên (và theo sau bởi Goldman Sachs) chào các quỹ bitcoin cho khách hàng của mình. Ngoài việc cho phép mua bitcoin bằng thẻ ghi nợ, các ngân hàng trong số này cũng đang xem xét các lựa chọn như Biên nhận Tài sản Số (Digital Asset Receipt) như là một hình thức bảo hiểm, bảo vệ và giám sát thêm đối với các giao dịch bitcoin.

Một số ngân hàng khác như UBS và JPMorgan cũng được báo cáo là đang xem xét việc chào tiền mã hóa như một sản phẩm đầu tư cho khách hàng của họ.

Việc cung cấp cho khách hàng các lựa chọn và cơ hội kinh doanh bitcoin như một tài sản hấp dẫn sẽ làm tăng tính cạnh tranh và vị thế của các ngân hàng tiên phong này, và đây có lẽ là một trong những lý do chính để các ngân hàng chuyển hướng sang chấp nhận bitcoin. Cũng cần biết thêm rằng cho đến nay, những người đầu tư vào bitcoin vẫn phải dựa vào các app của các fintech thế hệ mới như Robinhood, hoặc của các “ông lớn” trong lĩnh vực thanh toán như PayPal và Square, hoặc các sàn giao dịch chuyên tiền mã hóa như Coinbase.  

Ở chiều hướng ngược lại, cũng đã có hàng tá ngân hàng tuyên bố không chấp nhận hay hạn chế việc mua bitcoin. Điển hình trong số này là các ngân hàng và tổ chức tài chính lớn như Bank of America, Chase, CitiGroup, Lloyds Bank, và Bank of Scotland... Các ngân hàng này không còn cho phép khách hàng dùng thẻ tín dụng và các hạn mức tín dụng mà ngân hàng cung cấp để mua các loại tiền mã hóa (dù khách hàng vẫn có thể dùng thẻ ghi nợ và chuyển khoản để mua tiền mã hóa). Một số ngân hàng khác như Virgin Money, TD Bank, và PNC Bank... thì cấm khách hàng tham gia vào bitcoin qua hệ thống của họ.

Mới đây nhất, HSBC tiết lộ trên Reuters rằng họ không có kế hoạch thiết lập bộ phận kinh doanh tiền mã hóa hay chào mời tiền mã hóa như một kênh đầu tư cho khách hàng của mình. Lý do là bởi tiền mã hóa quá biến động và thiếu minh bạch. Dù thừa nhận rằng khách hàng của mình có thể rất quan tâm nhưng ngân hàng này cho biết họ sẽ không cổ xúy tiền mã hóa như một loại tài sản đầu tư trong mảng quản lý tài sản của họ.

Đi xa hơn nữa, HSBC cũng cho biết họ sẽ không dấn thân vào mảng tiền mã hóa có giá trị ổn định (stablecoin) như đồng tiền Tether. Thay vào đó, HSBC quan tâm đến tiền số ngân hàng trung ương (CBDC) mà một số nước như Mỹ và Trung Quốc đang xem xét hoặc đã thử nghiệm. Với HSBC, sự hấp dẫn của CBDC ngoài những ưu thế của tiền số nói chung còn là sự minh bạch và chức năng lưu giữ giá trị mạnh mẽ của chúng.

Cũng có thể các ngân hàng từ chối bitcoin một phần vì lý do như lý do mà nhà đầu tư tỷ phú Ray Dalio, nhà sáng lập quỹ phòng hộ lớn nhất thế giới Bridgewater Associates lo ngại cho tương lai của bitcoin. Đó là rủi ro lớn nhất cho bitcoin chính là sự thành công của nó. Khi đó, nó sẽ bị các ngân hàng trung ương, các Chính phủ tìm cách triệt hạ bởi đã trở nên hấp dẫn, cạnh tranh hơn trái phiếu. Nên quan điểm của những ngân hàng như HSBC cũng là dễ hiểu khi không muốn đổ nguồn lực vào một lĩnh vực mà tương lai hoàn toàn bất định, thay cho thứ dễ đoán định hơn, như CBDC.

Như vậy, có thể nói sự chia rẽ trong lập trường về bitcoin và các loại tiền mã hóa của các ngân hàng nằm ở cán cân giữa lợi ích và rủi ro nghiêng về phía nào trong con mắt của từng ngân hàng. Điều này cũng dễ hiểu nếu lấy ví dụ qua việc cùng một chứng khoán nhưng các ngân hàng lại đưa ra các khuyến nghị trái ngược nhau. Nhưng có điều chắc chắn là con số các ngân hàng chấp nhận hoặc không chấp nhận bitcoin sẽ ngày càng tăng mạnh chứ không dừng lại ở con số vài chục cho mỗi bên như hiện tại, bởi tương lai của các đồng tiền mã hóa phi nhà nước như bitcoin sẽ ngày càng trở nên rõ nét hơn.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).