Wednesday 5 January 2022

Triển vọng kinh tế thế giới và Việt Nam (Bài đăng trên KTSG, 2/1/2022)

https://thesaigontimes.vn/trien-vong-kinh-te-the-gioi-va-viet-nam/

Mức độ và sự kéo dài của cơn sốc lạm phát toàn cầu đã làm ngạc nhiên hầu hết các ngân hàng trung ương cũng như các tổ chức đưa ra dự báo kinh tế. Tình hình kinh tế thế giới năm 2021 có thể tóm lại bằng một vài dòng, cụ thể là nhu cầu tiêu dùng phục hồi bùng nổ đã không được đáp ứng bởi phía cung, vốn đã bị ảnh hưởng mạnh bởi sự đình trệ, đứt gẫy của chuỗi cung ứng.

Nguồn cung bị bóp nghẹt đã làm cho tăng trưởng kinh tế toàn cầu quý 3 năm nay tăng trưởng chậm hơn mức dự đoán của hầu hết các tổ chức. Những nền kinh tế phát triển bị ảnh hưởng mạnh nhất là Mỹ, Đức, Nhật từ hậu quả của sự gián đoạn chuỗi cung ứng gần đây.

Tuy vậy, tăng trưởng kinh tế toàn cầu năm 2021 vẫn được nhiều tổ chức dự báo ở mức 5,5%-5,7%, là mức tăng trưởng cao nhất kể từ năm 1973, là năm chứng kiến tình trạng vừa trì trệ tăng trưởng vừa lạm phát cao.

Sang năm 2022, nhìn chung, dự báo của các tổ chức đưa ra trong khoảng 4,1-4,6%, và nguyên nhân cho sự sụt giảm về tốc độ tăng trưởng so với năm 2021, ngoài sự quay trở về tình trạng bình thường, còn là do sự tụt giảm tăng trưởng mạnh của Trung Quốc. Phản ứng của giới cầm quyền nước này tỏ ra chậm chạp hơn so với kỳ vọng. Mặc dù trong thời gian tới, có thể chính quyền Trung Quốc sẽ lại tung ra các biện pháp nới lỏng để kích thích tăng trưởng, tăng trưởng của nước này được dự báo chỉ ở mức dưới 5% năm 2022.

Lạm phát thế giới trong năm 2022 được kỳ vọng sẽ giảm nhiệt. Sự tăng nóng giá cả hàng hóa từ tháng 3 năm nay được châm ngòi bởi sự bùng nổ nhu cầu tiêu dùng, bắt nguồn từ các gói kích thích kinh tế của Chính phủ các nước đã và đang phát triển, nhất là Mỹ. Sang năm 2022, nhu cầu tiêu dùng sẽ hướng nhiều hơn vào dịch vụ, trong khi đầu tư tăng trưởng mạnh mẽ sẽ mở rộng nguồn cung hàng hóa, còn các gói kích thích kinh tế thì sẽ được thu lại.

Tuy nhiên, điều đáng quan ngại đối với các ngân hàng trung ương là nguy cơ áp lực lạm phát sẽ lan rộng. Dân chúng nhiều nước đã nhận thấy rõ hậu quả của lạm phát lên ví tiền của mình, và hậu quả này càng trở nên nặng nề hơn khi nó được kết hợp với cú sốc về giá năng lượng. Kỳ vọng lạm phát bởi vậy ngày càng gia tăng.

Nền kinh tế Mỹ đã phục hồi mạnh với GDP đã vượt qua mức trước đại dịch và chênh lệch giữa tăng trưởng thực tế và tiền tệ tiềm năng ở Mỹ sẽ trở nên dương trong năm 2022. Tương tự như vậy là tình hình ở một số nước khác ở phương Tây. Do đó, Fed được kỳ vọng sẽ nâng lãi suất lần đầu tiên vào quý 3 năm 2020, trong khi ngân hàng trung ương Anh sẽ có khả năng nâng lãi suất sớm hơn, ngay từ quý 1 năm sau.

Biến chủng Covid mới có khả năng sẽ lại tác động mạnh đến chuỗi cung ứng và làm tăng áp lực giá cả. Điều này đặt ra thách thức lớn với ngân hàng trung ương các nước nếu họ không khẩn trương bình thường hóa chính sách của mình – thắt chặt lại chính sách tiền tệ.   

Phản ứng chính sách của các ngân hàng trung ương sẽ có sự phân hóa lớn. Trong khi Ngân hàng Trung ương châu Âu được kỳ vọng tiếp tục trì hoãn nâng lãi suất đến tận năm 2023 thì Trung Quốc được kỳ vọng sẽ cắt giảm lãi suất năm 2022.

Ngoài ra, đồng đô la Mỹ được dự báo sẽ mạnh lên trong năm 2022 phản ánh sự phục hồi mạnh mẽ của nền kinh tế Mỹ và sự nâng lãi suất của Fed. Đô la Mỹ mạnh lên trong khi kinh tế Trung Quốc giảm tốc sẽ tạo thành thách thức cho các nền kinh tế mới nổi khi họ cũng thắt chặt chính sách tiền tệ của mình.

Nhìn về Việt Nam, có một số khác biệt đáng chú ý so với thế giới. Trước tiên là, sau bao nhiêu đề xuất và tranh cãi, Ngân hàng Nhà nước và Bộ Tài chính đã không nới lỏng chính sách tiền tệ, tung ra các gói kích thích, hỗ trợ kinh tế đáng kể theo % GDP như ở nhiều nước. Đại dịch lan tràn, hoành hành gây chết chóc, phong tỏa ở nhiều địa phương càng làm cho tổng cầu không thể tăng mạnh như ở nhiều nước khác. Điều này lý giải vì sao lạm phát  ở Việt Nam đã không tăng mạnh như quan ngại của nhiều người.

Tăng trưởng kinh tế năm 2021 của Việt Nam được dự báo sẽ chỉ khoảng trên dưới 3% hoặc thấp hơn nhiều so với mức dự báo của các cơ quan hữu trách ở Việt Nam. Sang năm 2022, sự bình thường hóa nền kinh tế sẽ thúc đẩy tăng trưởng GDP cao hơn năm 2021 (và có lẽ cũng không thể vượt qua mức trung bình của thế giới), đồng thời cũng làm tăng áp lực lạm phát khi tổng cầu dần hồi phục và tăng trưởng mạnh trở lại sau khi nền kinh tế mở cửa lại (hoàn toàn) với bên ngoài trong khi chuỗi cung ứng trong nước có thể sẽ bị ảnh hưởng từ sự gián đoạn của chuỗi cung ứng thế giới .

Sự mạnh lên của đô la Mỹ và áp lực gia tăng giá cả sẽ buộc Ngân hàng Nhà nước hầu như không còn lựa chọn nào khác ngoài thắt chặt trở lại chính sách tiền tệ của mình. Mức độ thắt chặt trở lại có thể sẽ không quá lớn bởi Ngân hàng Nhà nước không muốn gây ra một sự đổ vỡ trong nền kinh tế nội địa khi sự phục hồi còn chưa vững chắc. Do đó, lãi suất tiền đồng năm 2022 có chiều hướng sẽ tăng lên, tuy ở mức độ nhỏ, hoặc ít nhất thì sẽ khó có chuyện lãi suất sẽ giảm tiếp so với mức hiện nay.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).