Saturday 22 January 2022

Cứu cung hay cứu cầu trước? (Bài đăng trên KTSG, số 1-2022)

https://thesaigontimes.vn/ktsg-so-1-2022-2022-va-xa-hon/

Tổng cục Thống kê (TCTK) mới công bố các số liệu của năm 2021 cho thấy nhiều điểm yếu trong nền kinh tế. Một trong những điểm nổi bật là tổng cầu rất yếu, thậm chí còn yếu hơn cả của năm 20220. Tổng cung dường như cũng có vấn đề, nếu được nhìn nhận qua lạm phát của Việt Nam ở mức khá thấp (1,84%) so với các nước như Mỹ và châu Âu, điều hiếm có trong nhiều năm.

Trước tình trạng này, bài toán đặt ra cho việc phục hồi và phát triển kinh tế là phải làm tăng tổng cung và/hoặc tổng cầu. Điều này xem như là đương nhiên, bởi tăng tổng cung hay tổng cầu chính là tăng GDP. Vì vậy, đã có một quan điểm đối với Việt Nam hiện nay là "tập trung tăng cả tổng cung và tổng cầu, trong đó ưu tiên hơn tổng cung". 

Không rõ cơ sở xuất phát của quan điểm trên là như thế nào. Nhưng cách dùng các từ “tập trung” và “ưu tiên” xem ra vẫn cùng cách tư duy phát triển kiểu quả mít có gai, tuy có thể có cái gai to hơn.

Rõ ràng, trong hoàn cảnh nguồn lực có hạn như hiện nay thì không thể tăng cả tổng cung lẫn tổng cầu, dù có được thòng thêm chữ “ưu tiên”. Mà xét cho cùng, tổng cung hay tổng cầu chỉ là các con số thống kê thể hiện tình trạng nền kinh tế nhìn từ những góc độ liên quan. Nếu cứ bóc tách nền kinh tế thành tổng cung và tổng cầu thì cũng tương đương với việc coi GDP gồm hai cấu phần (chính) là tổng cung và tổng cầu cộng lại nên để tăng GDP thì cần tăng (tốt nhất là) cả hai cấu phần này.

Bởi vậy, thay vì loay hoay đi tìm lời giải cần cứu cái nào hơn, cái nào trước (tổng cung hay tổng cầu), điều cần làm là phân tích và tìm ra cái gì là điểm nghẽn trong nền kinh tế dẫn đến tăng trưởng GDP thấp nhất trong nhiều năm qua như vậy, để từ đó có phương pháp xử lý phù hợp.

Theo hướng này, điểm nghẽn đáng nói nhất gây ra hậu quả kinh tế nặng nề trong năm 2021 chính là việc cách ly, phong tỏa trên diện rộng, diễn ra nhiều tháng ở các trung tâm kinh tế chính của cả nước. Việc này đã đồng thời tác động mạnh đến cả tổng cung lẫn tổng cầu, và, quan trọng hơn, theo kiểu tăng cường lẫn nhau.

Phong tỏa, cách ly trước tiên sẽ đột ngột buộc nhiều người phải ở yên trong nhà, không ra ngoài, làm ăn gì được. Hậu quả là, về phía cầu, nhu cầu tiêu dùng hàng hóa và dịch vụ cũng đột ngột rơi tự do. Về phía cung, không chỉ phải gánh chịu thiệt hại khi người lao động trong các ngành sản xuất, dịch vụ không thể đi làm bình thường nên doanh nghiệp buộc phải đóng cửa, hoạt động cầm chừng, mà còn bị thiệt hại khi nhu cầu mua sắm, tiêu dùng của xã hội lao dốc làm cho hàng hóa, dịch vụ không có nơi tiêu thụ, như việc rau quả, lúa chín đầy đồng mà không có ai thu hoạch, không bán được cho ai. Đến lượt mình, doanh nghiệp đóng cửa, hoạt động cầm chừng lại làm tăng số người mất việc, bị giãn việc, dẫn đến thu nhập sụt giảm mạnh hoặc không có. Điều này lại tác động cùng lúc đến cả cung và cầu (không có người mua, người mua không có tiền).

Nhưng nếu đã xét thì phải xét đến cùng nguồn gốc của vấn đề, điều gì gây ra phong tỏa và cách ly? Tất nhiên, đó chính là đại dịch Covid-19 và các biến thể. Nhưng thế vẫn chưa xong, vì phải xét đến chuyện cùng bị Covid-19 hoành hành nhưng tại sao vẫn có nhiều nước tăng trưởng kinh tế cao hơn Việt Nam, dù Việt Nam lúc đầu có một thời gian khá “thanh bình” đáng ghen tị?

Như vậy, phong tỏa, cách ly chỉ là hậu quả của việc không kiểm soát được Covid-19, để nó lây lan rộng và lúc đã lây lan rộng thì không biết làm thế nào để sống chung với nó và giảm thiểu thiệt hại kinh tế và sinh mạng con người. Nguyên nhân không kiểm soát được và sống chung với Covid-19 gồm: tiêm vaccine muộn; (không loại trừ) việc cấu kết nhau tham nhũng đưa vào độc quyền sử dụng kit thử nhanh Covid cho kết quả sai lầm, bỏ sót người nhiễm và làm lây lan oan những người lành; và sự lúng túng, bất cập của chính quyền trung ương, mạnh địa phương nào địa phương ấy tùy nghi các biện pháp cách ly, phong tỏa, càng làm ảnh hưởng mạnh đến cả phía cung lẫn cầu...

Vậy, để phục hồi và phát triển kinh tế thì điều quan trọng cần làm là phải thống nhất và tìm ra được cách sống chung với Covid-19 với các biến thể mới Omicron và các biến thể có thể có khác trong tương lai rất gần. Khi dịch vẫn còn (và chắc chắn sẽ tiếp tục) hoành hành mà vẫn phải đóng cửa, hạn chế các hoạt động kinh tế thì chẳng có cách nào cứu được cái gì, dù là cung hay là cầu, dù là “ưu tiên” hay “tập trung”.

Khi đã có cách sống chung với dịch thì dù dịch bệnh vẫn lan truyền nhưng người dân vẫn được tự do ra đường, mua sắm, tiêu dùng, doanh nghiệp vẫn được sản xuất mà không bị mấy gián đoạn hay trở ngại (trừ lý do bất khả kháng như bị ảnh hưởng bởi chuỗi cung ứng thế giới bị đứt đoạn) thì tự khắc cả cung lẫn cầu đều tự thân phát triển và kích thích nhau cùng phát triển.

Tất nhiên ở đây nhiệm vụ của chính quyền là phải tìm ra được cách sống chung tối ưu này. Nên suy cho cùng, nguồn gốc của mọi nguyên nhân và, do đó, là động lực để nền kinh tế có phục hồi và phát triển được hay không chính là chất lượng bộ máy công quyền hiện nay. Chừng nào không có sự thay đổi về chất thì sự kéo dài của dịch bệnh sẽ không được đối phó một cách hữu hiệu để rồi tuy hô hào “sống chung với dịch” nhưng sẽ vẫn không thể thực hiện được, và cả cung lẫn cầu sẽ còn tiếp tục trì trệ. 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).