Sunday 30 January 2022

Lo ngại với cái sự “lo ngại” (Bài đăng trên KTSG, 30/12/2022)

https://thesaigontimes.vn/lo-ngai-voi-cai-su-lo-ngai/

Ở nước mình đã và đang tồn tại hai thái cực đối lập. Ở thái cực này, chúng ta vẫn thường xuyên được nghe đại loại như phải mạnh dạn và sáng tạo, táo bạo và táo bạo hơn nữa, tức phải “đột phá” thoát khỏi lối mòn hay sự trì trệ của khuôn khổ luật lệ hiện hành!

Còn ở thái cực ngược lại thì chúng ta cũng thường xuyên được nghe những quan ngại, đại loại kiểu nếu Nhà nước mở ra, cho làm cái này, cái kia thì lo cái này, cái kia sẽ xảy ra, nên tốt nhất là đóng lại, hoặc không khuyến khích, hoặc tìm cách siết lại…

Không cần nói và chứng minh thì cũng phải đồng ý rằng cả hai thái cực này đều có thể tệ hại như nhau. Một đằng thì dễ để lại những hậu quả như kiểu Vinashin. Đằng kia thì hậu quả được thể hiện ở, ví dụ, sự bỏ lỡ cơ hội, sự cản trở cơ chế thị trường, sự bóp nghẹt và trói chặt hoạt động bình thường của doanh nghiệp và nền kinh tế.

Trong bài này chỉ xin được nhắc đến việc phát hành trái phiếu doanh nghiệp (TPDN), và thuộc vào thái cực “lo ngại”. Và xin được minh họa vấn đề qua các ý kiến gần đây của đại diện Bộ Tài chính(1).

Trước tiên, Bộ Tài chính cho biết/cho rằng các tổ chức tư vấn phát hành và phân phối TPDN trên thị trường vẫn chào mời nhà đầu tư cá nhân tham gia mua trái phiếu, thậm chí có hiện tượng “lách” để đưa nhà đầu tư cá nhân trở thành nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp. Bộ lý giải, “nhà đầu tư cá nhân vẫn là chính họ, chưa thể đánh giá hay lường hết những rủi ro của doanh nghiệp phát hành cũng như trái phiếu họ mua”.

Rõ ràng, nhận định như vậy là đang đánh giá thấp nhà đầu tư cá nhân và/hoặc, ngược lại, đánh giá cao nhà đầu tư tổ chức, ở cái nghĩa là coi nhà đầu tư cá nhân thì thường không hiểu biết gì mấy nên dễ bị “lùa”/lừa; còn nhà đầu tư tổ chức thì rõ ràng “già rơ”, thừa khôn ngoan, hiểu biết và có năng lực để mua đúng cái họ muốn mà không sợ bị “lầm lỡ” như nhà đầu tư cá nhân.

Cũng như chuyện TPDN nước ngoài cũng đủ loại, được xếp hạng (nôm na) từ 3 sao đến 0 sao mà không có loại nào bị ế, kể cả trái phiếu của doanh nghiệp đã và đang vỡ nợ. Bởi thị trường sẽ định giá chất lượng trái phiếu thế nào thì tiền sẽ ở mức đó (theo tỷ lệ nghịch). Và sẽ luôn có những trái phiếu mà đầu tư vào đó hệt như chơi xổ số, trúng thì trúng rất to nhưng khả năng mất là rất cao, dành cho nhà đầu tư cả tổ chức lẫn cá nhân ưa thích mạo hiểm.

Kiểu tư duy trên là một dạng đòi nghĩ thay, lo hộ cho thị trường. Trên thực tế, nhà đầu tư cá nhân không dễ “mù quáng” khi mua TPDN mà không tìm hiểu thông tin. Ví dụ, chỉ cần lên Google gõ cụm từ “Individual investors buying corporate bonds” thì sẽ ra rất nhiều thông tin về chuyện liên quan. Chẳng hạn như ở cái link này(2), có giải thích cặn kẽ TPDN về bản chất là gì, ai (được) mua, và nếu là nhà đầu tư cá nhân thì mua như thế nào, dễ dàng ra sao… Tức là, trên thế giới việc nhà đầu tư cá nhân mua TPDN, cả trực tiếp lẫn thông qua một trung gian môi giới, là một việc hết sức bình thường, chẳng có mấy nhà nước nào lại đứng ra can ngăn là các vị đừng mua vì nguy hiểm, rủi ro lắm…

Cũng đừng cho rằng TPDN ở nước ngoài thì có chất lượng cao hơn ở Việt Nam (nên nhà đầu tư cá nhân có “lỡ” mua thì cũng không sao). Bởi thực tế thì cũng đầy đủ “thượng vàng hạ cám” hệt như Việt Nam mà thôi. Cũng xin đừng nói rằng nhà đầu tư cá nhân nước ngoài có trình độ cao hơn và khôn ngoan hơn nhà đầu tư cá nhân Việt Nam, vì… chẳng thể chứng minh như thế được! Ít nhất là qua kinh nghiệm cá nhân của người viết với dân bản địa và đối tác ở nhiều nước (gồm cá nhân).

Chuyển sang cái ý thứ hai và cũng là một tư duy khá phổ biến ở Việt Nam, rằng nhà đầu tư cá nhân thiếu hiểu biết, dễ bị lừa. Còn nhà đầu tư tổ chức thì ngược lại.

Khỏi phải vận dụng đến những gương kinh điển về cá nhân nhà đầu tư đã thành công vang dội và thành tỉ phú như thế nào, chỉ xin nói rằng người viết, trong công việc hàng ngày, được biết đến nhiều tổ chức mà thực chất là do cá nhân lập ra và điều khiển, chi phối, cũng như có nhiều tổ chức đầu tư mà kết quả còn thua cả các nhà đầu tư cá nhân.

Cũng liên quan đến nỗi lo ngại cho sự “khờ dại” của nhà đầu tư cá nhân, Bộ Tài chính cho rằng: “Thị trường Việt Nam có một đặc thù là nhà đầu tư có xu hướng gia tăng tỷ trọng hoặc giá trị đầu tư mà chưa quan tâm đến rủi ro, dù các cơ quan quản lý và chuyên gia đã đưa ra khuyến nghị, cảnh báo”.

Tỷ trọng và giá trị đầu tư được đề cập ở đây có lẽ là dành cho TPDN. Nếu đúng vậy thì điều này cũng hết sức bình thường. Trong bối cảnh lãi suất tiết kiệm ngân hàng thì thấp, đầu tư chứng khoán, vàng, ngoại tệ, đất đai thì còn rủi ro lớn hơn, chỉ có mỗi kênh TPDN là cho ngay một lãi suất hấp dẫn hơn hẳn, và niêm yết rõ ràng (tất nhiên có chắc hay không lại là chuyện khác, cũng giống như đầu tư chứng khoán hay vào bất cứ thị trường nào khác lúc đang thăng hoa). Không đầu tư vào TPDN thì nhà đầu tư cá nhân đầu tư vào đâu, hay cứ ôm tiền để đỡ rủi ro?

Và cũng không cần nhắc lại chuyện nhà đầu tư cá nhân trên thế giới mua TPDN là hết sức bình thường, cũng như chuyện TPDN nước ngoài cũng đủ loại, được xếp hạng (nôm na) từ 3 sao đến 0 sao mà không có loại nào bị ế, kể cả trái phiếu của doanh nghiệp đã và đang vỡ nợ. Bởi thị trường sẽ định giá chất lượng trái phiếu thế nào thì tiền sẽ ở mức đó (theo tỷ lệ nghịch). Và sẽ luôn có những trái phiếu mà đầu tư vào đó hệt như chơi xổ số, trúng thì trúng rất to nhưng khả năng mất là rất cao, dành cho nhà đầu tư cả tổ chức lẫn cá nhân ưa thích mạo hiểm, săn lùng lợi nhuận cao.

Về phía doanh nghiệp, Bộ Tài chính cho biết: “Nhiều doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn chủ sở hữu hạn chế, kết quả sản xuất – kinh doanh thua lỗ, nhưng vẫn huy động được khối lượng lớn trái phiếu. Ngoài ra, có doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhưng không gắn việc sử dụng vốn với mục đích phát hành. Thậm chí, hiện tượng lưu chuyển vốn lòng vòng giữa các tổ chức phát hành và tổ chức thực chất sử dụng vốn đã xuất hiện trên thị trường”.

Lại xin nói về chuyện trên thế giới. Như đã đề cập ở trên, và bản thân người viết cũng đã liên quan, có không ít doanh nghiệp thua lỗ, mất khả năng chi trả hay đang phải vật lộn về mặt tài chính, được đặt vào diện quản thúc, hay những doanh nghiệp startup chẳng có gì bảo đảm ngoài… lời hứa về tương lai, nhưng vẫn (được phép) phát hành trái phiếu (được xếp vào dạng trái phiếu rác – junk bonds). Tất nhiên, cái “xui khiến” nhà đầu tư mua loại trái phiếu rác này không phải vì nhà đầu tư khờ dại, thiếu hiểu biết, mà là lợi suất cao, giá bán kỳ vọng cao trong tương lai, theo đúng nguyên tắc rủi ro cao thì lợi suất cao(3).

Như thế thì cái kết quả kinh doanh kém cỏi, thua lỗ cũng không nên được coi là tiêu chuẩn để xem xét doanh nghiệp có được phát hành trái phiếu hay không, để khuyến nghị, thậm chí ngăn cản nhà đầu tư có nên đầu tư hay không, doanh nghiệp có được phép phát hành trái phiếu hay không.

Còn chuyện doanh nghiệp phát hành trái phiếu nhưng không sử dụng đúng mục đích, chuyển vốn lòng vòng cũng nên được coi, ít nhất là, không phải chuyện bất thường, khi nhìn ra thế giới. Không hiếm doanh nghiệp phát hành trái phiếu với mục đích rất chung chung “for other corporate uses”(4), tức tiền phát hành trái phiếu thu về và được làm gì thì là chuyện của… doanh nghiệp. Chứ chẳng có mấy chính phủ nào lại đứng ra quy định doanh nghiệp phải/chỉ được sử dụng tiền phát hành trái phiếu cho mục đích công bố ban đầu.

———–

(1) https://thesaigontimes.vn/lo-ngai-rui-ro-tu-nhung-lo-hong-tren-thi-truong-trai-phieu-doanh-nghiep/
(2) https://www.investopedia.com/financial-edge/0612/how-to-invest-in-corporate-bonds.aspx
(3)https://www.investopedia.com/terms/j/junkbond.asp#:~:text=Junk%20bonds%20represent%20bonds%20issued,offset%20any%20risk%20of%20default.
(4) https://www.saam.com/en/investors/saam-coloca-nueva-emision-de-bonos-por-us-506-millones/

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).