Wednesday 5 January 2022

Thúc đẩy kinh tế số: Trông… Singapore (Bài đăng trên KTSG, 12/12/2021, bản gốc)

https://thesaigontimes.vn/thuc-day-kinh-te-so-trong-singapore/

Tháng 11/2014, Singapore khởi động chương trình Quốc gia Thông minh (Smart Nation) nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trên toàn quốc. Mục tiêu của Singapore thông qua chương trình này là biến họ thành động lực chính dẫn dắt làn sóng số hóa ở Đông Nam Á.

Trong số nhiều cấu phần của chương trình, có cấu phần quan trọng là số hóa doanh nghiệp. Ngoài việc đầu tư vào cơ sở hạ tầng số, Chính phủ Singapore còn khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào số hóa. Về phần doanh nghiệp, họ cũng được thấy rõ lợi ích chuyển đổi số nên đã điều chỉnh chiến lược kinh doanh của mình để chuẩn bị tốt cho tham vọng này của Chính phủ.

Ở Việt Nam, các cơ quan chức năng đang trong giai đoạn xác định và đề xuất một Kế hoạch chuyển đổi số năm 2022 với khoảng 45 nhiệm vụ quan trọng, kèm theo đó là 50 tiêu chí định lượng.

Đến đây, đã thấy một số khác biệt lớn giữa Singapore và Việt Nam. “Trông người” thì rõ rằng họ đã có một tầm nhìn trước ta đến cả ngót thập kỷ trong cùng một câu chuyện chuyển đổi số quốc gia. “Ngẫm đến ta” thì phải thẳng thắn mà rằng chúng ta đã quá chậm chễ. Cho đến thời điểm này mà chúng ta mới chỉ dừng lại ở giai đoạn “đề xuất kế hoạch”. Càng đáng buồn hơn là nếu không có người tiên phong đi đầu tạo ra cuộc đua chuyển đổi số trong khu vực là Singapore thì có lẽ việc “đề xuất kế hoạch” này sẽ chỉ được nghe đến ở Việt Nam... vài năm sau!

Nhưng sự chậm chễ, đi sau quá xa này chưa phải là điều đáng nói nhất, bởi dẫu sao vẫn có một lý do hết sức khách quan luôn có thể vin vào để biện minh rằng Singapore là nước nhỏ, giàu có thì họ làm gì mà chẳng được, chẳng nhanh!

Điều đáng nói ở đây là tư duy làm chính sách, chiến lược. Đọc các chương trình và chiến lược của Singapore nói riêng trong chuyển đổi số và nói chung cho các lĩnh vực, vấn đề khác thì rất ít thấy những con số mục tiêu định lượng cụ thể cho một thời gian cụ thể. So với Việt Nam thì Singapore thua xa về mặt này. Chẳng hạn, Kế hoạch chuyển đổi số năm 2022 của Việt Nam như nói ở trên có phải nói là rất nhiều nhiệm vụ và tiêu chí cụ thể thậm chí chi li đến hàng thập phân, ví dụ như tỷ trọng kinh tế số trong GDP năm 2022 (11,5%).

Không lẽ người Singapore làm toán, làm kế hoạch không giỏi như người Việt nên họ mới không thể làm ra những mục tiêu, nhiệm vụ, con số và chỉ tiêu rạch ròi cỡ như vậy? Hay tại họ không có ý chí và quyết tâm chính trị để luôn có thể “huy động toàn bộ hệ thống chính trị” cho một nhiệm vụ chiến lược nào đó như ở Việt Nam nên không thể xây dựng và thực hiện những con số kế hoạch mà người Việt vốn đã quá quen thuộc trong suốt mấy chục năm thời kinh tế bao cấp, kế hoạch hóa trước đây?

Không rõ vì lý do gì, nhưng chỉ biết rằng đến năm 2019, tức mãi đến 5 năm sau khi khởi động chương trình chuyển đổi số quốc gia mà chỉ có 40% doanh nghiệp Singapore cho biết rằng họ đã đầu tư vào số hóa (1). Trong khi đó, Việt Nam xem ra sẽ thành công hơn Singapore nhiều, theo kế hoạch trên giấy, khi có đến 30% doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng nền tảng số trong năm 2022, tức chỉ sau một năm kể từ khi Kế hoạch chuyển đổi số năm 2022 được... đề xuất!   

Nhưng trên khía cạnh thực hiện, người Singapore rất biết cách biến chương trình, chiến lược của mình thành hiện thực bằng những giải pháp cụ thể rất thực tiễn, thực dụng. Chẳng hạn, cũng là giải pháp thúc đẩy số hóa dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, Chính phủ Singapore đã thiết kế và tung ra một số chương trình cụ thể, mỗi chương trình nhắm đến một đối tượng và phạm vi cụ thể (2).

Chương trình trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi số đầu tiên là “SMEs Go Digital” (tạm dịch: Doanh nghiệp vừa và nhỏ chuyển đổi số). Mục đích của chương trình này là làm cho việc chuyển đổi số trở nên đơn giản cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đã có hơn 75 ngàn doanh nghiệp vừa và nhỏ áp dụng các giải pháp số từ chương trình này.

Tiếp theo là Kế hoạch Số hóa các ngành (Industry Digital Plans), hướng dẫn từng bước một cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một số ngành nghề cụ thể về các giải pháp số hóa và đào tạo nhân viên của mình trên từng giai đoạn phát triển của doanh nghiệp.     

Kế đến là giải pháp hỗ trợ tài chính của Chính phủ. Các doanh nghiệp thực hiện chuyển đổi số theo các giải pháp được thiết kế và cung ứng bởi các nhà cung cấp dịch vụ có chất lượng, đáng tin cậy và cạnh tranh về chi phí thì sẽ được Chính phủ tài trợ tới 80% chi phí thực hiện các giải pháp này.

Bên trên mới chỉ là ba giải pháp đầu tiên trong số chín các giải pháp cụ thể mà Chính phủ Singapore thực hiện để trợ giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ. Các giải pháp còn lại rất đa dạng, xử lý các vấn đề cụ thể khác, bao gồm giải pháp cho doanh nghiệp mới thành lập và chưa thực hiện chuyển đổi số thì sẽ chuyển đổi số thông qua những nền tảng cơ bản nhất như viễn thông và ngân hàng; giải pháp thành lập các nền tảng/sàn giao dịch giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, và doanh nghiệp với người tiêu dùng để bán hàng ra nước ngoài mà không cần phải hiện diện ở đó; và dịch vụ tư vấn chuyên môn chuyển đổi số miễn phí cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhu cầu được tư vấn...

So với Singapore trên khía cạnh thực hiện, chương trình hành động và giải pháp của Việt Nam đang khá là mông lung. Thậm chí, nếu căn cứ vào nội dung của các cuộc hội thảo với hội nghị cho đến tận thời điểm gần đây thì có cảm tưởng như bản thân các khái niệm số hóa, chuyển đổi số là gì và các giải pháp thúc đẩy chuyển đổi số ra sao ở Việt Nam... vẫn còn đang ở giai đoạn tranh luận, làm rõ!

Nếu có giải pháp tương đối cụ thể nào đó về chuyển đổi số như của Hiệp hội Phần mềm và Dịch vụ Công nghệ thông tin Việt Nam (VINASA) dành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ trong 26 lĩnh vực thì, không mấy ngạc nhiên, té ra lại là giải pháp “học” của Singapore (3).  

Vậy nên, kết luận rút ra là để “đi tắt đón đầu” theo cái nghĩa đen là để rút ngắn khoảng cách tiếp tục tụt hậu so với Singapore trong cuộc đua chuyển đổi số, có lẽ Việt Nam nên có chiến lược thực dụng hơn, là học hỏi và áp dụng chiến lược của họ, thay vì mất thời gian và công sức vào xây dựng những chương trình và chiến lược được trang điểm bằng những con số hoành tráng mà có rất ít cơ sở hậu thuẫn, trong khi lại thiếu vắng những giải pháp cụ thể khả thi để biến chúng thành hiện thực.                                                                                                                                      

-------

(1) https://www.statista.com/topics/7166/digitalization-of-business-in-singapore/#dossierKeyfigures

(2) https://www.imda.gov.sg/-/media/Imda/Files/Programme/SMEs-Go-Digital/Factsheet_16September2021a.pdf                        

(3) https://vneconomy.vn/sap-co-khung-huong-dan-chuyen-doi-so-cho-doanh-nghiep-smes-va-san-xuat.htm

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).