Wednesday 5 January 2022

Tương lai của Defi (Bài đăng trên KTSG, số 52-2021, ngày 22/12/2021)

https://thesaigontimes.vn/ktsg-so-52-2021-von-cho-sme-va-startup/

Tài chính phi tập trung, Defi, là một thuật ngữ chung dùng cho các loại ứng dụng tài chính đa dạng trong lĩnh vực tiền mã hóa hoặc blockchain (chuỗi khối) nhằm loại bỏ các trung gian tài chính (ngân hàng, nhà môi giới, công ty quản lý tài sản...). Có thể nói Defi lấy cảm hứng từ blockchain, công nghệ đằng sau đồng bitcoin số, là thứ cho phép một số tổ chức cùng có được bản sao kê lịch sử các giao dịch. Điều này có nghĩa bản sao kê này không bị kiểm soát bởi một nguồn duy nhất, tập trung.

Các ứng dụng Defi được xây dựng chủ yếu trên nền tảng blockchain Ethereum chung đang phát triển mạnh mẽ bởi chúng là lĩnh vực của các nhà đầu tư tiền mã hóa tìm kiếm lợi suất 3 con số. Nhưng Defi còn có tiềm năng thay đổi hoàn toàn ngành dịch vụ tài chính và trở thành trào lưu chính. Tiềm năng này đã xảy ra. Defi đã tăng trưởng từ một lĩnh vực trị giá 1 tỷ đô la Mỹ năm 2019 lên 100 tỷ đô la hiện nay. Ngoài giới trader tiền mã hóa, các tổ chức tài chính truyền thống hiểu rõ nhu cầu bức thiết phải đón đầu công nghệ Defi này.

Defi đang chuyển đổi ngành tài chính

Defi sẽ làm thay đổi ngành tài chính hầu như cùng cách mà mà trí tuệ nhân tạo và máy học trong ngành FinTech đang làm thay đổi lĩnh vực quản lý tài sản. Defi sẽ phổ cập, phổ thông hóa, với chi phí thấp, các dịch vụ cốt lõi mà các ngân hàng thương mại, công ty dịch vụ tài chính, và thậm chí là FinTech đang cung cấp hiện nay như cho vay, và nó sẽ giúp các thể chế này tập trung vào việc cung cấp các dịch vụ khác của mình như trải nghiệm khách hàng, trải nghiệm nhà đầu tư một cách hiệu quả hơn thay vì đổ công sức và tiền ra để tìm cách duy trì sức cạnh tranh trong vô vọng với Defi trong những lĩnh vực truyền thống.     

Sử dụng mã nguồn mở, các giao thức Defi có thể được sử dụng để triển khai các sáng kiến, các sản phẩm và dịch vụ chuyên biệt một cách nhanh chóng. Các nhà sáng chế đôi khi có thể sáng tạo ra một sản phẩm mới trong một vài ngày. Tuy vậy, vẫn chưa có nhiều công ty đạt đến mức độ triển khai này, và đây là một lĩnh vực tiềm năng trong tương lai gần.

Như đã biết, Defi được xây dựng trên hạ tầng sổ cái phân tán. Lợi thế của việc xây dựng các ứng dụng trên nền hệ thống phân tán nằm ở chỗ nó cho phép tiếp cận mở và loại bỏ khỏi một số trung gian, làm cho nhiều sản phẩm tài chính hiệu quả hơn với chi phí thấp hơn. Các ứng dụng Defi có thể tự chạy mà không chịu ảnh hưởng của một nguồn điều khiển tập trung. Chúng thường được quản trị một cách dân chủ theo đó người sử dụng kiểm soát được tương lai của ứng dụng hoặc giao thức.

Hầu như mọi dịch vụ hay sản phẩm tài chính tập trung có thể bị thay thế bởi các giao thức phi tập trung và/hoặc các token dựa trên nền tảng blockchain. Ví dụ như trong cho vay tín dụng, giao thức phi tập trung giải phóng cho ngân hàng những công đoạn như quá trình tìm kiếm người vay phù hợp, quy trình kiểm soát rủi ro, trích lập phòng ngừa rủi ro của ngân hàng, cũng như quá trình chuyển giao tài sản giữa hai bên.            

Các giao thức Defi dân chủ hóa sự tiếp cận bởi ai cũng có thể sử dụng được chúng. Các ngân hàng thường chỉ cung cấp dịch vụ cho các cá nhân đáp ứng được một số tiêu chuẩn về tín dụng, số dư tài khoản... Trong khi đó, bản chất nguồn mở của các giao thức Defi mặc nhiên làm cho các dịch vụ này mở rộng cho mọi người tiếp cận, miễn là có đủ công cụ (một điện thoại thông minh, truy cập Internet, và một ví tiền mã hóa).

Tương lai sẽ ra sao?

Nhờ Defi, mọi nguồn giá trị đều có thể được token hóa để giá trị có thể tự do di chuyển khắp các lãnh thổ và ngành. Người trong ngành tài chính truyền thống thường hoài nghi về Defi vì nó chỉ là về token. Nhưng họ không hiểu rằng token có thể được sử dụng để đại diện cho mọi thứ - bất động sản, việc làm, thẻ hội viên...

Sẽ không phải quá lời nhưng trong tương lai hầu như mọi thứ đều có thể định giá và mang ra giao dịch được. Và như thế sẽ có sự ra đời của các cái gọi là “sàn giao dịch giá trị hợp nhất” – một sàn giao dịch mà mọi hình thứ giá trị đều có thể mua bán một cách số hóa với chi phí và trục trặc tương đối thấp trên các hệ thống phi tập trung.

Cũng cần phải nói thêm là hiện nay chúng ta đã có khả biến mọi thứ thành token. Vấn đề chính là thiếu tính thanh khoản (và tức là thị trường) cho các token này. Với sáng chế ra các quỹ thanh khoản để tạo lập thị trường – nền móng của Defi – sàn giao dịch giá trị của các loại tài sản khác nhau sẽ trở nên khả thi.

Ví dụ, chúng ta có tài sản A và có thể trao đổi lấy tài sản B, và tài sản B có thể trao đổi lấy tài sản C. Nhưng nếu chúng ta muốn trao đổi thẳng từ tài sản A sang tài sản C thì trước tiên sẽ phải tìm được người mua/bán tài sản B rồi sau đó lại tìm người mua/bán tài sản C. Quá trình này có thể sẽ tốn kém, mất thời gian và có khả năng không thành công. Trong khi đó, Defi giúp cho quá trình chuyển đổi tài sản thẳng từ A sang C một cách thông suốt và hiệu quả hơn nhiều, miễn là khi đó thị trường đã đủ lớn và có tính thanh khoản cao.        

Khái niệm trên dẫn đến một mô hình mới trong tương lai về giao dịch các giá trị. Lúc đó, chúng ta có thể đi mua sắm tại cửa hàng và trả tiền từ một ví điện tử gồm nhiều loại tài sản khác nhau mà chúng ta có, chẳng hạn như một ít tiền pháp định, một ít bitcoin, một ít NFT,      và thậm chí là một khoản vay nợ mới tại chỗ mà chúng ta phải tạo ra (tức là một khoản vay Defi) để có đủ tiền trả món hàng muốn mua.  

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).