Wednesday 5 January 2022

Năm xu hướng kinh tế chính trong năm 2022 (Bài đăng trên KTSG, 5/1/2022)

https://thesaigontimes.vn/nam-xu-huong-kinh-te-chinh-trong-nam-2022/ 

Phần lớn nền kinh tế thế giới đã phục hồi trong năm 2021 sau một năm kể từ đại dịch Covid-19 nổ ra, tuy sự phục hồi này không đồng đều và liên tục giữa các nước và các khu vực kinh tế. Một trong những điều đáng chú ý nhất trong năm 2021 là sự phục hồi kinh tế mạnh mẽ ở một số nước và khu vực đã tạo ra sự mất cân đối nghiêm trọng về cung và cầu, gây ra sự gián đoạn, đứt gẫy trong chuỗi cung ứng toàn cầu. Điều này cũng làm cho lạm phát tăng mạnh ở nhiều nền kinh tế.

Sang năm 2022, điều trước tiên có thể dự đoán là những làn sóng Covid mới, như của biến chủng Omicron sẽ không thể làm chệch ray quá trình phục hồi kinh tế ở nhiều nước, vì có nhiều dấu hiệu cho thấy dịch gây ra bởi Covid đang và sẽ biến chuyển từ đại dịch như năm trước sang dịch bệnh mang tính thông thường hơn, kiểu như cúm mùa. Tuy vậy, dù không còn nguy hiểm như năm trước nhưng những làn sóng lây nhiễm Covid mới vẫn sẽ làm các chính phủ duy trì một số hạn chế nhất định trong các hoạt động kinh tế để tránh sự bùng phát lây nhiễm dẫn đến sự quá tải của hệ thống y tế. Vì vậy, kinh tế sẽ tiếp tục phục hồi nhưng sẽ không thể với tốc độ nhanh chóng như kỳ vọng được.

Thứ hai, sự đứt gẫy chuỗi cung ứng toàn cầu trong năm 2021 làm cho nhiều hãng sản xuất lớn trên thế giới cũng phải cắt giảm công suất hoặc thậm chí ngừng sản xuất được kỳ vọng sẽ tiếp tục trong năm 2022 tới bởi nhiều nước vẫn duy trì các hạn chế về đi lại giữa các quốc gia để đối phó với các biến chủng Covid mới, tiếp tục làm gián đoạn dòng chảy hàng hóa và con người giữa các quốc gia, các ngành kinh tế. Tuy vậy, hậu quả của sự tiếp tục đứt gẫy chuỗi cung ứng gây ra tình trạng mất cung cầu, làm gia tăng áp lực lên lạm phát được dự báo sẽ giảm dần vào cuối năm 2022 khi một loạt chính sách ở tầm quốc gia được thi hành. 

Về phía cầu, sự gia tăng bùng nổ như trong năm 2021 chắc chắn sẽ không còn tái diến khi mà các ngân hàng trung ương sẽ nhất quán hơn trong việc thắt chắt chính sách tiền tệ để đối phó với áp lực lạm phát gia tăng từ việc siêu nới lỏng tiền tệ trước đó. Còn các chính phủ cũng sẽ/buộc phải ngừng hoặc rút lại các gói giải cứu kinh tế khi các ngân hàng trung ương không còn tiếp tục hỗ trợ ngân sách bằng cách mua vào ồ ạt trái phiếu chính phủ như hai năm trước đây. 

Phía cung cũng sẽ được các chính phủ tìm cách tháo gỡ các khó khăn, cản trợ, gồm sự rỡ bỏ dần các hạn chế đi lại, lưu thông hàng hóa và con người để thúc đẩy các ngành kinh tế trọng yếu cùng với đà gia tăng tiêm chủng và sự ra đời của các phương thuốc điều trị Covid có hiệu quả hơn.

Thứ ba, sự phục hồi kinh tế sẽ tiếp tục diễn ra một cách không đồng đều giữa các nước trong năm 2022. Và các nước được hưởng lợi nhiều nhất trong năm 2022 khi sự đứt gẫy chuỗi cung ứng thế giới được khắc phụ sẽ là các nước công nghiệp hóa và/hoặc các nước phụ thuộc lớn vào thương mại quốc tế. 

Thứ tư, thông thường sau mỗi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới hay khu vực, sẽ có nhiều nền kinh tế mới nổi lâm vào tình trạng vỡ nợ hoặc khó khăn nghiêm trọng về khả năng trả nợ do phải tăng vay nợ công để đối phó với khủng hoảng trước đó. Tuy vậy, cuộc khủng hoảng kinh tế gây ra lần này do Covid-19 được dự báo sẽ không để lại hậu quả tương tự cho các nền kinh tế mới nổi. Bởi phần lớn các nước này đã có nền tảng kinh tế vĩ mô tốt hơn trước đây, và đang duy trì các chương trình quản lý nợ một cách rất hiệu quả, giảm thiểu khả năng vỡ nợ, trong khi lại tận dụng được điều kiện thuận lợi của thị trường (ngoại tệ mạnh được các ngân hàng trung ương bơm mạnh ra, nay có thắt chặt thì cũng sẽ diễn ra một cách từ từ, nhưng vẫn trong xu thế nới lỏng hơn so với trước đây để đạt trạng thái toàn dụng) để tiếp tục củng có dự trữ ngoại hối và hưởng lợi từ sự phân bổ thêm quyền rút vốn đặc biệt.

Thứ năm, chương trình đầu tư có trách nhiệm liên quan đến môi trường, con người/cộng đồng và nền quản trị công ty (ESG) sẽ tiếp tục được nhấn mạnh và xúc tiến trong năm 2022. Tuy nhiên, sẽ có một số trở ngại và sự chống đối, gây áp lực lên một số chính phủ khi giá năng lượng tăng vọt, còn các ngành gây ô nhiễm lớn như nhiệt điện, luyện thép lại không có những phương án thay thế ít tốn kém. Bởi vậy, dù trên giấy tờ, tài trợ và đầu tư vào những ngành ô nhiễm sẽ có xu hướng tiếp tục giảm mạnh nhưng trên thực tế xu hướng đầu tư vào các ngành này sẽ có sự phân hóa đáng kể giữa các nước và khu vực kinh tế, tùy thuộc vào quyết tâm cũng như sự thực tâm của các chính phủ liên đới trong việc biến chuyển nền kinh tế của mình theo hướng xanh hóa. 


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).