Wednesday 30 July 2014

Rủi ro ai gánh? (Bài đăng trên TBKTSG, 31/7/2014, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/118236/Rui-ro-ai-ganh?.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa có văn bản số 5342/NHNN/TTGSNH gửi tới các tổ chức tín dụng yêu cầu đẩy mạnh việc cho vay vốn ra thị trường, đặc biệt đối với khách hàng không có tài sản đảm bảo (vay tín chấp). Ngoài ra, NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng chủ động cơ cấu lại các khoản vay vốn có lãi suất cao trước đây, trên cơ sở thông tin về đánh giá tín nhiệm quốc gia, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.

Để làm được những việc trên, NHNN yêu cầu các ngân hàng phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình thực tế để áp dụng có hiệu quả vào việc phân loại nợ, đánh giá chất lượng tín dụng khách hàng làm cơ sở để xem xét cho vay khách hàng... Đây sẽ là cơ sở để các nhà băng xem xét cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp.

Có cái gì bất ổn với chỉ đạo trên của NHNN?

Tuy chỉ đạo này là hợp lý về mặt đạo đức, vì có thể nó xuất phát từ mong muốn làm điều tốt cho nền kinh tế thông qua việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân hàng, cung cấp vốn đầy đủ cho nhu cầu vốn của các doanh nghiệp, nhưng nó mang nặng dấu ấn của nền kinh tế chỉ huy và... nửa vời!

Theo văn bản trên, NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho vay tín chấp dựa trên thông tin đánh giá tín nhiệm quốc gia và xếp hạng tín dụng nội bộ. Nhưng cần lưu ý rằng thông tin đánh giá tín nhiệm quốc gia không có liên quan (trực tiếp) gì đến, không cho biết điều gì về đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp. Nên việc NHNN yêu cầu cho vay tín chấp doanh nghiệp dựa trên đánh giá tín nhiệm quốc gia xem ra là điều rất... bất thường.

Hơn nữa, một khi ngân hàng thương mại đã có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để đánh giá chất lượng tín dụng khách hàng thì họ chắc chắn đã biết được rằng có thể cho vay như thế nào, bao nhiêu cho một khách hàng nào đó, dựa trên những tiêu chí cho vay của riêng ngân hàng đó (chẳng hạn, với khách hàng loại A thì cho vay tối đa bao nhiêu, có thể cho vay tín chấp được hay không và bao nhiêu; với khách hàng loại B thì không thể cho vay tín chấp được ...).

Nói cách khác, dù không có chỉ đạo trên của NHNN thì một ngân hàng thương mại nào đó vẫn có thể đã và đang cho vay tín chấp dựa trên những tiêu chí đánh giá và phân loại khách hàng riêng của mình (tất nhiên là hệ thống đánh giá, phân loại này thường được sự đồng ý, phê duyệt của NHNN ít nhất là thông qua các đợt kiểm toán, thanh tra của NHNN). Nói cách khác, chỉ đạo trên của NHNN có thể là điều thừa trên thực tế.

Nay, NHNN yêu cầu đẩy mạnh cho vay tín chấp, thì có thể hình dung 2 khả năng ở đây. Khả năng thứ nhất, một số ngân hàng thương mại không có hệ thống đánh giá tín dụng nội bộ và NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại này phải xây dựng hệ thống này. Tuy việc một ngân hàng nào đó không có hệ thống đánh giá tín dụng nội bộ là điều khó có khả năng xảy ra, nhưng dù trên thực tế có thế thì, thay vì ra một văn bản yêu cầu chung chung cho toàn bộ hệ thống ngân hàng như vậy, NHNN cần gửi công văn trực tiếp đến từng ngân hàng có vấn đề yêu cầu họ giải quyết việc này, và đây là một thiếu sót lớn của NHNN khi cấp phép và/hoặc theo dõi hoạt động của ngân hàng thương mại khi họ hoạt động mà không có hệ thống đánh giá tín dụng nội bộ.

Và lưu ý rằng việc NHNN yêu cầu ngân hàng thương mại xây dựng hệ thống đánh giá tín dụng nội bộ không có nghĩa là ngân hàng đó có nghĩa vụ phải cho vay tín chấp, nếu như bản thân ngân hàng đó không thích cho vay tín chấp, đơn giản vì e ngại rủi ro. Một ví dụ nhãn tiền về chuyện rủi ro có thể xảy ra với bất cứ ai, dù là khách hàng có độ tin cậy tín dụng cao, đó là thông thường, các ngân hàng thương mại khi cho vay ngắn hạn với nhau trên thị trường liên ngân hàng không yêu cầu phải có tài sản thế chấp. Thế nhưng, đã có thời điểm khi thanh khoản hệ thống căng thẳng, một số ngân hàng thương mại yêu cầu phải có tài sản thế chấp vì nhiều ngân hàng đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ đúng hạn.

Điều này dẫn đến khả năng thứ hai. Đó là, NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại, dù muốn hay không, vẫn phải cho vay tín chấp, và/hoặc hạ thấp điều kiện để cho vay tín chấp. Thế nhưng, khi xảy ra hậu quả cho ngân hàng thương mại, ví dụ khách hàng mất khả năng chi trả, liệu NHNN có gánh hậu quả này thay cho ngân hàng thương mại bị mất vốn không? Câu trả lời hầu như chắc chắn là không,và vì thế mới có thể nói là yêu cầu trên của NHNN là mang dấu ấn của nền kinh tế chỉ huy nửa vời, vì ở đây NHNN chỉ ra lệnh mà không phân bổ nguồn lực để cho ngân hàng thương mại thực hiện mệnh lệnh, không giống như trong nền kinh tế chỉ huy thuần túy với các cơ quan quản lý phân bổ các nguồn lực cho các đơn vị kinh tế và yêu cầu họ thực hiện các mệnh lệnh của mình.

Ngoài ra, văn bản trên của NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng thương mại hướng việc cho vay vốn vào các dự án trọng điểm, dự án lớn có hiệu quả và các lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ và quy định của pháp luật. 

Tương tự như đã phân tích ở trên, đây có thể cũng là một thiện ý của NHNN cho cả nền kinh tế nhưng nó cũng chỉ là hiện thân của một kiểu tư duy cũ và nửa vời. Cần hiểu rõ rằng cho vay các dự án trọng điểm, dự án lớn có hiệu quả và các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ không luôn đồng hành với lợi nhuận cao và ít rủi ro hơn so với cho vay các lĩnh vực và dự án thông thường khác. Nay NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại hướng cho vay vào những lĩnh vực và dự án này nhưng nếu xảy ra thua lỗ, mất mát vốn từ những khoản cho vay này thì liệu NHNN sẽ chịu trách nhiệm bồi thường, hoặc có một hình thức hỗ trợ gì đó cho các ngân hàng thương mại bị chỉ đạo không? Hay ai sẽ gánh trách nhiệm thay?

Tóm lại, có nhiều vấn đề bất ổn trong một văn bản cho thấy dường như nhà quản lý không quan tâm và/hoặc không hiểu rõ lĩnh vực và đối tượng quản lý của mình. Thay vào đó, cứ ra văn bản thể hiện ý chí và quyền lực của mình mới là điều quan trọng với họ.

Tuesday 29 July 2014

Tớ lên báo Tây

Vừa nói chuyện Tây, Ta ở mục comment của entry "Phá giá không gây bất ổn vĩ mô" xong thì tớ nhận được email của đồng chí Nguyễn Khắc Giang, một cộng tác viên của tạp chí Focus Asean, thông báo bài của đồng chí ấy có trích dẫn lời của tớ đã được xuất bản trên tạp chí này, ở link sau. 

http://focus-asean.com/vietnam-non-performing-loans-focus-asean/

Tuy không phải là lần đầu được lên báo Tây, nhưng đọc xong bài này tớ vẫn tự thấy quả là mình lên "level" hẳn, chứ không lôi thôi như so với khi xuất hiện trên báo ta, mặc dù tớ cũng không dám chắc những trích dẫn trong bài là lời của tớ (vì tớ thấy nó sang quá, không hợp với tạng của tớ, hehe!) 

Sunday 27 July 2014

Thêm một ví dụ sinh động về "tự diễn biến nhận thức"

http://laodong.com.vn/tai-chinh/nang-mua-len-21200-vndusd-tranh-de-ti-gia-giam-sau-228748.bld

Đang điểm báo, tớ tìm thấy bài trên, đúng cái chủ đề "tự diễn biến nhận thức" mà tớ nói hôm trước nên post lại để các đồng chí thấy tớ nói đúng về cái khả năng kỳ diệu này của con người, mà cụ thể ở đây là thêm đồng chí Cấn Văn Lực, người trước đây đôi ba tuần tớ đã có dịp hân hạnh lôi ra phang vì chuyện phá giá có tăng xuất khẩu hay không.

Cứ cái đà này thì thay vì đến 99% các chuyên gia phản đối phá giá như trước đây có lần tớ đã than vãn, sẽ có đến 99% chuyên gia chuyển sang ủng hộ phá giá. Thế mới tài!

Một ví dụ sinh động về nghề viết báo

http://thoibaonganhang.vn/tin-tuc/2-than-trong-voi-nhung-dieu-chinh-chinh-sach-ty-gia-23295.html

Các đồng chí đọc bài ở link trên sẽ thấy đồng chí tác giả rất "khôn", khi trích dẫn nửa lời, đúng hơn là nửa ý của tớ ở cái đoạn này:

"Vì vậy, những điều chỉnh chính sách tỷ giá vừa qua của NHNN không phải để hỗ trợ xuất khẩu và cho thấy sự không nhất quán trong chính sách tỷ giá” - một chuyên gia bình luận. Thực tế, nhiệm vụ của NHNN có phải hỗ trợ xuất khẩu?

Đọc các bài trước của tớ về tỷ giá sẽ thấy tớ nói vì sao NHNN phải phá giá và làm cách nào để phá giá mà vẫn kiềm chế lạm phát, và tớ phân tích vì sao mà thực tế đợt phá giá vừa rồi không phải như NHNN tuyên bố là để hỗ trợ xuất khẩu, mà là vì mục đích khác (vẫn lo ngại lạm phát). Nay đồng chí phóng viên nhét vào mồm tớ rằng nhiệm vụ (chính) của NHNN là hỗ trợ xuất khẩu.

Đây là một cách rất hay và các đồng chí, nhất là phóng viên, biên tập viên báo chí, rất nên học tập. Đơn giản, vì nhờ có thế thì mới có đề tài, mới có chuyện, mới có bài để mà viết. Chẳng hạn, như trong bài trên, từ việc nhét chữ vào mồm tớ thế là đương nhiên đồng chí phóng viên có hẳn một vấn đề rất lớn, rất to chuyện và trầm trọng để đến nỗi phải lôi thêm một vài chuyên gia cộm cán vào mới ra vấn đề rằng chức năng chính của NHNN không phải là hỗ trợ xuất khẩu, mà là để ổn định vĩ mô và kiềm chế lạm phát, rõ chửa?

Chứ nếu cứ bám vào kết luận của tớ rằng căn cứ vào những gì đã và đang xảy ra có thể kết luận rằng NHNN nói một đằng hành động một nẻo thì  làm gì còn cái gì đáng để viết, để "triển khai" thêm nữa?

Năng suất lao động Việt Nam thấp do đâu? (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn 28/7/2014 , bản gốc)

http://www.doanhnhansaigon.vn/online/dien-dan-doanh-nhan/thoi-su/2014/07/1082748/nang-suat-lao-dong-viet-nam-thap-do-dau/

Mới đây, theo Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) năng suất lao động của Việt Nam năm 2013 thuộc nhóm thấp nhất Châu Á – Thái Bình Dương; ví dụ, thấp hơn Singapore, Nhật và Hàn Quốc lần lượt là 15 lần, 11 lần và 10 lần. Ngay cả so với các nước ASEAN có mức thu nhập trung bình, năng suất lao động của Việt Nam vẫn có khoảng cách lớn, chỉ bằng một phần năm Malaysia và hai phần năm Thái Lan.
Cũng đáng chú ý là hiện tốc độ tăng của năng suất lao động đang giảm đi tại Việt Nam. Trong giai đoạn 2002-2007, năng suất lao động tăng trung bình 5,2%/năm - mức cao nhất trong khu vực. Tuy nhiên, kể từ cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008, tốc độ tăng năng suất trung bình hàng năm của Việt Nam chậm lại, chỉ còn 3,3%/năm.
Một số chuyên gia cho rằng nguyên nhân của tình trạng năng suất lao động ở Việt Nam thấp là do, ví dụ, lao động chưa được đào tạo phù hợp với yêu cầu của doanh nghiệp, thể lực người lao động kém, kỹ năng yếu, kỹ thuật và công nghệ sản xuất thấp v.v... Nên, cứ thế mà suy ra, để cải thiện năng suất lao động thì tất nhiên phải khắc phục những mặt yếu kém này, ví dụ phải củng cố nguồn nhân lực, tăng cường thể chất, kỹ năng và trình độ người lao động, áp dụng kỹ thuật và công nghệ sản xuất tiên tiến.
Nhưng mọi chuyện đều không đơn giản, đúng hơn là không thẳng tuột như thế!
Để tìm đúng nguyên nhân năng suất lao động thấp thì trước tiên cần hiểu đúng khái niệm năng suất lao động. Theo định nghĩa chung nhất, năng suất lao động đo lường lượng hàng hóa và dịch vụ được tạo ra trong một giờ lao động.
Vì không thể đo lường năng suất lao động của những người lao động thuộc các ngành nghề khác nhau tạo ra những sản phẩm và dịch vụ khác nhau (chẳng hạn không thể so sánh để biết năng suất lao động của một công nhân xây dựng liệu có cao hơn một công nhân dệt trong một giờ làm việc hay không nếu chỉ sử dụng sản phẩm họ tạo ra tương ứng là bao nhiêu m2 tường và bao nhiêu m2 vải), nên người ta sử dụng một đại lượng chung, đó là giá trị GDP ròng, hoặc giá trị gia tăng (đo bằng đơn vị tiền tệ), tạo ra trong một giờ lao động.
Với khái niệm và cách đo lường năng suất lao động như trên, có thể nói một cách khái quát rằng năng suất lao động tỷ lệ thuận với tổng GDP của cả nền kinh tế và tỷ lệ nghịch với tổng số giờ lao động tiêu tốn trong cả nền kinh tế để làm ra từng đó GDP. Như vậy, với cùng quy mô dân số và lao động (giả thiết là cùng một cơ cấu dân số) thì nước nào có GDP lớn hơn sẽ có năng suất lao động cao hơn nước kia.
Trở lại với kết quả so sánh năng suất lao động nói trên của ILO. Không có gì đáng ngạc nhiên khi năng suất lao động của Việt Nam lại quá thấp so với những nước phát triển như Singapore, Nhật Bản, Hàn Quốc, nơi có GDP bình quân đầu người đều cao tới hơn chục lần so với Việt Nam. Cũng tương tự nếu so với Malaysia và Thái Lan, nơi có thu nhập GDP bình quân đầu người gấp dăm lần Việt Nam thì mức chênh lệch dăm lần về năng suất lao động là một sự thật chẳng nên lấy làm ngạc nhiên.
Đến đây ta đã rõ hơn về nguồn gốc của chênh lệch năng suất lao động giữa Việt Nam và các nước khác. Do đó, để giảm chênh lệch này thì đương nhiên phải lấp đi khoảng cách về thu nhập bình quân đầu người. Mà để giảm chênh lệch thu nhập bình quân đầu người thì phải tăng tốc độ tăng trưởng GDP. (Và từ đây có thể giải thích được tại sao tốc độ tăng trưởng năng suất lao động của Việt Nam lại chậm lại kể từ 2008 đến nay, như ILO chỉ ra bên trên. Đó là do tốc độ tăng trưởng GDP của Việt Nam đã tụt giảm đáng kể so với giai đoạn tăng trưởng cao 2002-2007 trước đó).
Nhưng để nâng tốc độ tăng trưởng GDP nhằm tăng năng suất lao động thì ta lại vấp phải bài toán khó vốn đang là đề tài nổi cộm hiện nay mà vì thế mới phải có những việc lớn như tái cơ cấu nền kinh tế, cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước, thúc đẩy kinh tế tư nhân và FDI, cải cách thể chế, tăng cường hòa nhập với nền kinh tế thế giới v.v...
Chưa kể, nâng tốc độ tăng trưởng GDP và tăng năng suất lao động hóa ra lại là vấn đề con gà và quả trứng. Vì tăng năng suất lao động cũng chính là giải pháp chính để cải thiện tốc độ tăng trưởng GDP.
Cũng may, để tăng GDP hay tăng năng suất lao động thì đều cần phải có vốn tư bản (nôm na: phải có tiền để đầu tư mua máy móc, công cụ làm việc, càng nhiều tiền thì càng mua được máy móc, công cụ tốt), công nghệ mới (có công nghệ mới, ví dụ dùng tự động hóa, có thể giảm được số người làm việc), và vốn con người (người lao động có kiến thức và kỹ năng tốt thì mới sử dụng và làm chủ được công nghệ mới, thiết bị mới, mới tổ chức được sản xuất một cách hợp lý...). Nhưng bản thân công nghệ mới và vốn con người suy cho cùng lại đều phụ thuộc vào vốn tư bản ở một mức độ lớn (có tiền thì mới có khả năng đầu tư cho công nghệ cao, hiện đại, đầu tư vào giáo dục, đào tạo nhân lực v.v...).
Tất nhiên, có tiền mới chỉ là điều kiện cần, và điều kiện đủ là phải tiêu số tiền đó ra sao cho hợp lý, ví dụ, phải biết dành bao nhiêu cho đầu tư vào máy móc, thiết bị, bao nhiêu vào ngành nào, lĩnh vực nào, bao nhiêu vào đào tạo và nâng cao thể chất, kỹ năng, trình độ người lao động, và biết làm thế nào để tránh bị mất mát do tham nhũng, lãng phí, hay thậm chí do tham lam, vĩ cuồng và ngu xuẩn đem tiền đi đổ vào những cái thùng không đáy v.v...
Như vậy, nói cho cùng, nguyên nhân của năng suất lao động, và rộng hơn là thu nhập bình quân đầu người, thấp kém ở Việt Nam là do thiếu tiền và thiếu (những cái đầu biết) cách tiêu tiền cho hợp lý, đúng đắn nhất. Nếu lại hỏi tiếp và để trả lời tiếp tại sao Việt Nam lại thiếu những cái này thì chỉ còn cách đổ tại... số phận! 

Wednesday 16 July 2014

Về đâu chính sách tỷ giá? (Bài đăng trên TBKTSG, 17/7/2014, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/117608/Ve-dau-chinh-sach-ty-gia?.html

Sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng lên thêm 1 điểm phần trăm nữa với lý do để hỗ trợ xuất khẩu, tỷ giá đã có những diễn biến lạ. Sau một thời gian tăng khá mạnh lên gần mức trần trong mấy ngày đầu tiên sau điều chỉnh, tỷ giá hiện đã giảm mạnh về gần mức trước khi điều chỉnh.

Một trong những lý do hiển nhiên cho tình trạng này là cung ngoại tệ có thể đang rất dồi dào, thể hiện qua thông báo của NHNN rằng họ đang tiếp tục mua vào ngoại tệ để nâng dự trữ ngoại hối. Nhưng mặt khác, nếu xét đến lý do NHNN đưa ra trong đợt điều chỉnh  tỷ giá vừa rồi, rằng không phải là do áp lực cung cầu ngoại tệ mà là để thúc đẩy xuất khẩu, thì người ta có thể thấy sự bất nhất trong chính sách tỷ giá của NHNN.
Nếu đã định thúc đẩy xuất khẩu thì, về nguyên tắc, NHNN phải duy trì một tỷ giá cao hơn trước đây (tức làm VND yếu đi). Trong bối cảnh cung ngoại tệ tăng mạnh thì NHNN càng phải tích cực mua vào ngoại tệ với tỷ giá cao hơn trước để sao cho tỷ giá VND trong hệ thống ngân hàng và trên thị trường tăng thêm quanh quẩn 1 điểm phần trăm, tạo thuận lợi cho xuất khẩu đúng như ý đồ.

Nay tỷ giá chỉ tăng nhẹ hoặc hầu như không tăng so với trước đây cho thấy khả năng NHNN hoặc đã không tích cực mua vào USD, và/hoặc đã không mua với tỷ giá cao hơn đáng kể so với trước đây. Nếu đúng như vậy thì có thể kết luận rằng NHNN không muốn để VND yếu đi (so với hiện tại) và vì thế, mục đích đợt điều chỉnh tỷ giá vừa rồi thực chất không phải là để hỗ trợ xuất khẩu như tuyên bố.
Cùng với việc NHNN tiếp tục hút VND về thông qua kênh tín phiếu NHNN và tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn chậm, trong khi lượng vốn lớn của ngân hàng tiếp tục đổ vào trái phiếu chính phủ có thể suy luận rằng thanh khoản VND hiện đang dồi dào ở mức dư thừa. Trong bối cảnh này, có thể đối với NHNN nỗi lo ngại chính vẫn là nếu để VND mất giá như đã định thì sẽ lại có thêm một lượng lớn VND được tung thêm ra lưu thông, làm trầm trọng thêm tình trạng dư thừa VND, tăng áp lực lạm phát. Mà với mục tiêu chính sách đặt kiềm chế lạm phát là ưu tiên hàng đầu thì sẽ không có gì đáng ngạc nhiên khi chính sách tỷ giá của NHNN trên thực tế vẫn thiên về giữ ổn định tỷ giá để giảm áp lực lạm phát, thay vì để nó tăng lên nhằm thúc đẩy xuất khẩu.

Nhưng về nguyên tắc, có thể vừa phá giá, vừa giữ áp lực lạm phát không thay đổi bằng cách điều chỉnh cung tiền, thông qua công cụ tín phiếu NHNN và dự trữ bắt buộc. Trong trường hợp hiện nay ở Việt Nam, cùng với việc tích cực mua vào ngoại tệ với tỷ giá cao hơn để tỷ giá tăng thêm 1 điểm phần trăm (hoặc hơn nữa) nhằm hỗ trợ xuất khẩu, NHNN song song với đó cần tung thêm tín phiếu NHNN và/hoặc nâng dự trữ bắt buộc để hút bớt VND tăng thêm từ quá trình mua vào ngoại tệ trước đó. Nếu thực hiện được như vậy thì NHNN không còn phải bận tâm đến khả năng xung đột mục tiêu chính sách, giữa ổn định vĩ mô (lạm phát) và hỗ trợ xuất khẩu nữa.

Bởi vậy, một khi đã công khai tuyên bố mục tiêu hiện thời của chính sách tỷ giá của mình - hỗ trợ xuất khẩu - thì NHNN nên hiện thực hóa chính sách này để gây dựng lòng tin của thị trường vào chính sách của mình, đồng thời tạo điều kiện thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu và tăng trưởng GDP. Phối hợp hài hòa với chính sách tiền tệ, chính sách nới lỏng tỷ giá sẽ thành công mà không gây ra hậu quả phá vỡ bất ôn vĩ mô, tăng lạm phát như NHNN đã có thể lo ngại và dẫn đến một chính sách tỷ giá dùng dằng, mất phương hướng như hiện nay.

Thursday 10 July 2014

"Tự diễn biến" nhận thức!

Mấy lần trước tớ định lọc ra một số ví dụ về quá trình "tự diễn biến" của một số đồng chí chuyên gia và quan chức về nhận thức rất thú vị nhưng lại thôi vì không muốn tốn thời gian vô ích.

Nay đọc bài này của đồng chí Lịch về tỷ giá (ủng hộ thậm chí là khuyến khích NHNN phá giá thêm), tớ nhớ ra là trước đây cũng phang đồng chí này trong entry này (do cái tội đồng chí Lịch phản đối phá giá) rồi nên lục lại để so sánh cho các đồng chí thấy con người ta có cái khả năng rất đáng ca ngợi là tự diễn biến có khi một cách vô thức theo hướng "thiện", hehe.

Còn nhiều đồng chí khác dạo này cũng đã và đang tự diễn biến nhận thức và tư tưởng rồi (ít nhất về chuyện tỷ giá, là cái dễ thấy và nóng hổi). Nhưng các đồng chí tự tìm tòi, phát hiện nhé.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).