Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa có văn bản số 5342/NHNN/TTGSNH gửi tới các tổ chức tín dụng yêu cầu đẩy mạnh việc cho vay vốn ra thị trường, đặc biệt đối với khách hàng không có tài sản đảm bảo (vay tín chấp). Ngoài ra, NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng chủ động cơ cấu lại các khoản vay vốn có lãi suất cao trước đây, trên cơ sở thông tin về đánh giá tín nhiệm quốc gia, hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ.
Để làm
được những việc trên, NHNN yêu cầu các ngân hàng phải nhanh chóng hoàn thiện hệ
thống xếp hạng tín dụng nội bộ phù hợp với phạm vi hoạt động, tình hình
thực tế để áp dụng có hiệu quả vào việc phân loại nợ, đánh giá chất lượng tín
dụng khách hàng làm cơ sở để xem xét cho vay khách hàng... Đây sẽ là cơ sở
để các nhà băng xem xét cho vay tín chấp đối với các doanh nghiệp.
Có cái gì bất
ổn với chỉ đạo trên của NHNN?
Tuy chỉ đạo này
là hợp lý về mặt đạo đức, vì có thể nó xuất phát từ mong muốn làm điều tốt cho
nền kinh tế thông qua việc thúc đẩy tăng trưởng tín dụng của hệ thống ngân
hàng, cung cấp vốn đầy đủ cho nhu cầu vốn của các doanh nghiệp, nhưng nó mang
nặng dấu ấn của nền kinh tế chỉ huy và... nửa vời!
Theo văn bản
trên, NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại đẩy mạnh cho vay tín chấp dựa trên
thông tin đánh giá tín nhiệm quốc gia và xếp hạng tín dụng nội bộ. Nhưng cần
lưu ý rằng thông tin đánh giá tín nhiệm quốc gia không có liên quan (trực tiếp)
gì đến, không cho biết điều gì về đánh giá tín nhiệm doanh nghiệp. Nên việc
NHNN yêu cầu cho vay tín chấp doanh nghiệp dựa trên đánh giá tín nhiệm quốc gia
xem ra là điều rất... bất thường.
Hơn nữa, một
khi ngân hàng thương mại đã có hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ để đánh giá
chất lượng tín dụng khách hàng thì họ chắc chắn đã biết được rằng có thể cho
vay như thế nào, bao nhiêu cho một khách hàng nào đó, dựa trên những tiêu chí
cho vay của riêng ngân hàng đó (chẳng hạn, với khách hàng loại A thì cho vay
tối đa bao nhiêu, có thể cho vay tín chấp được hay không và bao nhiêu; với
khách hàng loại B thì không thể cho vay tín chấp được ...).
Nói cách khác,
dù không có chỉ đạo trên của NHNN thì một ngân hàng thương mại nào đó vẫn có
thể đã và đang cho vay tín chấp dựa trên những tiêu chí đánh giá và phân loại
khách hàng riêng của mình (tất nhiên là hệ thống đánh giá, phân loại này thường
được sự đồng ý, phê duyệt của NHNN ít nhất là thông qua các đợt kiểm toán,
thanh tra của NHNN). Nói cách khác, chỉ đạo trên của NHNN có thể là điều thừa
trên thực tế.
Nay, NHNN yêu
cầu đẩy mạnh cho vay tín chấp, thì có thể hình dung 2 khả năng ở đây. Khả năng
thứ nhất, một số ngân hàng thương mại không có hệ thống đánh giá tín dụng nội
bộ và NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại này phải xây dựng hệ thống này. Tuy
việc một ngân hàng nào đó không có hệ thống đánh giá tín dụng nội bộ là điều khó
có khả năng xảy ra, nhưng dù trên thực tế có thế thì, thay vì ra một văn bản
yêu cầu chung chung cho toàn bộ hệ thống ngân hàng như vậy, NHNN cần gửi công
văn trực tiếp đến từng ngân hàng có vấn đề yêu cầu họ giải quyết việc này, và
đây là một thiếu sót lớn của NHNN khi cấp phép và/hoặc theo dõi hoạt động của
ngân hàng thương mại khi họ hoạt động mà không có hệ thống đánh giá tín dụng
nội bộ.
Và lưu ý rằng
việc NHNN yêu cầu ngân hàng thương mại xây dựng hệ thống đánh giá tín dụng nội
bộ không có nghĩa là ngân hàng đó có nghĩa vụ phải cho vay tín chấp, nếu như
bản thân ngân hàng đó không thích cho vay tín chấp, đơn giản vì e ngại rủi ro.
Một ví dụ nhãn tiền về chuyện rủi ro có thể xảy ra với bất cứ ai, dù là khách
hàng có độ tin cậy tín dụng cao, đó là thông thường, các ngân hàng thương mại
khi cho vay ngắn hạn với nhau trên thị trường liên ngân hàng không yêu cầu phải
có tài sản thế chấp. Thế nhưng, đã có thời điểm khi thanh khoản hệ thống căng
thẳng, một số ngân hàng thương mại yêu cầu phải có tài sản thế chấp vì nhiều
ngân hàng đi vay không thực hiện được nghĩa vụ trả nợ đúng hạn.
Điều này dẫn
đến khả năng thứ hai. Đó là, NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại, dù muốn hay
không, vẫn phải cho vay tín chấp, và/hoặc hạ thấp điều kiện để cho vay tín
chấp. Thế nhưng, khi xảy ra hậu quả cho ngân hàng thương mại, ví dụ khách hàng
mất khả năng chi trả, liệu NHNN có gánh hậu quả này thay cho ngân hàng thương
mại bị mất vốn không? Câu trả lời hầu như chắc chắn là không,và vì thế mới có
thể nói là yêu cầu trên của NHNN là mang dấu ấn của nền kinh tế chỉ huy nửa
vời, vì ở đây NHNN chỉ ra lệnh mà không phân bổ nguồn lực để cho ngân hàng
thương mại thực hiện mệnh lệnh, không giống như trong nền kinh tế chỉ huy thuần
túy với các cơ quan quản lý phân bổ các nguồn lực cho các đơn vị kinh tế và yêu
cầu họ thực hiện các mệnh lệnh của mình.
Ngoài ra, văn
bản trên của NHNN cũng yêu cầu các ngân hàng thương mại hướng việc cho vay vốn vào các dự án trọng điểm, dự án lớn có hiệu quả và các
lĩnh vực ưu tiên theo chủ trương của Chính phủ và quy định của pháp luật.
Tương tự như đã phân tích ở trên, đây có thể cũng là một
thiện ý của NHNN cho cả nền kinh tế nhưng nó cũng chỉ là hiện thân của một kiểu
tư duy cũ và nửa vời. Cần hiểu rõ rằng cho vay các dự án trọng điểm, dự án lớn
có hiệu quả và các lĩnh vực ưu tiên của Chính phủ không luôn đồng hành với lợi
nhuận cao và ít rủi ro hơn so với cho vay các lĩnh vực và dự án thông thường
khác. Nay NHNN yêu cầu các ngân hàng thương mại hướng cho vay vào những lĩnh vực
và dự án này nhưng nếu xảy ra thua lỗ, mất mát vốn từ những khoản cho vay này
thì liệu NHNN sẽ chịu trách nhiệm bồi thường, hoặc có một hình thức hỗ trợ gì
đó cho các ngân hàng thương mại bị chỉ đạo không? Hay ai sẽ gánh trách nhiệm
thay?
Tóm lại, có nhiều vấn đề bất ổn trong một văn bản cho thấy
dường như nhà quản lý không quan tâm và/hoặc không hiểu rõ lĩnh vực và đối tượng
quản lý của mình. Thay vào đó, cứ ra văn bản thể hiện ý chí và quyền lực của
mình mới là điều quan trọng với họ.