Wednesday 27 January 2016

Nghịch lý tỷ giá trung tâm (Bài đăng trên CafeF, bản gốc)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/ly-giai-hien-tuong-lech-pha-ty-gia-20160126150058968.chn

Tỷ giá trung tâm do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) tính toán và công bố với mục đích để định hướng thị trường đã chính thức được thực hiện 3 tuần nay. Đúng như tuyên bố của NHNN, tỷ giá trung tâm đã diễn ra theo kiểu ngày hôm nay tăng, ngày mai giảm, nhưng ngày kia thì lại đứng yên, không thể hiện một xu hướng rõ rệt nào để có thể đầu cơ.

Chưa dừng lại ở đây, tỷ giá trung tâm còn thường xuyên diễn biến ngược chiều với tỷ giá giao dịch tại các ngân hàng thương mại (tỷ giá trung tâm công bố đầu ngày làm việc tăng trong khi tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng thương mại lại giảm, hoặc đứng yên, và ngược lại). Điều có thể coi là nghịch lý là tỷ giá trung tâm được NHNN tính toán dựa trên 3 căn cứ gồm tỷ giá liên ngân hàng ngày liền trước, biến động tỷ giá của rổ 8 đồng tiền, và các cân đối tiền tệ vĩ mô, định hướng chính sách tiền tệ của NHNN, nên tỷ giá trung tâm mang tính thị trường nhiều hơn, linh hoạt hơn, nên lẽ ra sẽ phải là cơ sở phù hợp và vững chắc để các ngân hàng thương mại xác định tỷ giá niêm yết mua vào bán ra hàng ngày (nhưng không được vượt quá khuôn khổ biến động +/-3% xung quanh tỷ giá trung tâm).

Một trong những lý giải khả dĩ cho sự ngược hướng của tỷ giá niêm yết tại các ngân hàng với tỷ giá trung tâm là do các ngân hàng và cả khách hàng của ngân hàng (những người có giao dịch ngoại tệ với ngân hàng) trước đây găm giữ USD nay buộc phải “nhả” số USD này ra khi họ thấy không còn cơ hội đầu cơ kiếm lời do tỷ giá trung tâm (trong con mắt họ) biến động bất thường, không có xu hướng rõ rệt nào cả (với ngân hàng thương mại còn có thêm một vật cản cho việc đầu cơ, đó là không được phép vượt quy định về trạng thái ngoại tệ). Và thường thì thời điểm của sự “nhả” ra này (làm cho cung USD tăng lên, gây áp lực giảm tỷ giá) là bất định, không nhất thiết là trùng lặp với thời điểm NHNN điều chỉnh tăng tỷ giá trung tâm. Nên chúng ta mới chứng kiến những ngày có sự tăng giảm ngược chiều nhau của 2 loại tỷ giá này.

Nhưng lý giải này là không ổn khi không thể giải thích được cho thực tế có nhiều ngày tỷ giá trung tâm đi xuống mà tỷ giá niêm yết của ngân hàng thương mại lại quay đầu tăng lên, cho thấy vẫn có nhiều ngân hàng và khách hàng lại quay trở lại đầu cơ, lại găm giữ USD, bất chấp ý đồ của NHNN khi để tỷ giá trung tâm biến động bất định nhằm dẹp nạn đầu cơ USD.

Đúng là nếu đầu cơ trong ngắn hạn, hàng ngày, thì nhà đầu cơ sẽ rất rủi ro khi mua hôm nay với tỷ giá cao nhưng ngày mai muốn bán thì tỷ giá lại thấp, như ý đồ của NHNN. Nhưng nếu nhà đầu cơ dự đoán (đúng) rằng tỷ giá tất yếu sẽ phải tăng lên đáng kể, ví dụ 1%, trong kỳ hạn dài hơn, chẳng hạn tháng sau, thì họ vẫn đầu cơ và vẫn có lãi. Vì cho dù NHNN có công bố tỷ giá trung tâm biến động thất thường hàng ngày thì mức biến động này cũng chỉ rất nhỏ (vài đồng đến vài chục đồng như 3 tuần vừa qua), chưa đủ để dập tắt kỳ vọng của giới đầu cơ. Quan trọng hơn, để dập tắt thành công kỳ vọng tỷ giá tăng lên của giới đầu cơ thì NHNN phải ngày nào cũng giảm tỷ giá và phải giảm đủ lớn, vì nếu không người đầu cơ vẫn thắng khi nhảy ra bán đúng vào ngày NHNN không giảm tỷ giá nữa, hoặc giảm tỷ giá không đáng kể (chưa giảm đủ 1%) tính trong suốt cả thời kỳ NHNN bắt đầu chống đầu cơ. Việc này xem là không thể, và, vì thế, có thể là một phần của lý do cho việc tỷ giá vẫn tăng lại.

Ngoài ra, cấu thành thứ ba trong việc tính toán tỷ giá trung tâm của NHNN – các cân đối vĩ mô tiền tệ và định hướng chính sách tiền tệ của NHNN – xem ra không mang nhiều tính thị trường, vì thường đã nói đến định hướng có nghĩa là ít nhiều có mang yếu tố chủ quan, áp đặt ý chí trong đó. Do vậy, sự vận động ngược chiều nhau của tỷ giá trung tâm và tỷ giá niêm yết tại ngân hàng thương mại (có phần) là do yếu tố chủ quan, không tuân theo tín hiệu thị trường của tỷ giá trung tâm này.

Tóm lại, cho dù hiện nay tỷ giá trung tâm được tính toán cẩn trọng theo một công thức nào đó, dựa trên những yếu tố thị trường thì thị trường vẫn có cái lý của nó, và tỷ giá thị trường có thể sẽ tiếp tục vận động trái chiều với tỷ giá trung tâm, và, do đó, đặt ra câu hỏi về tính cần thiết của tỷ giá trung tâm. Nhưng có lẽ với NHNN, tỷ giá trung tâm vẫn là công cụ không thể thiếu, không chỉ để góp phần (dù là hạn chế) dẹp nạn đầu cơ như nói ở trên, mà còn để “trói” tỷ giá giao dịch thực tế trên thị trường, không được vượt quá mức mà NHNN thấy là hợp lý (không vượt quá biên độ +/-3% quanh tỷ giá trung tâm). 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).