Monday 13 August 2018

Không thể tùy cơ ứng biến (Bài đăng trên TBKTSG, 13/8/2018, bản gốc, tiêu đề do báo đặt)

https://www.thesaigontimes.vn/276690/khong-the-tuy-co-ung-bien.html


Không như kỳ vọng của nhiều người, chiến tranh thương mại Mỹ-Trung ngày càng leo thang lên những nấc nguy hiểm mới và hai bên xem ra đều không chịu ngồi vào bàn đàm phán và nhượng bộ nhau.

Chắc chắn trong tương lai sẽ có một thời điểm mà Mỹ và Trung Quốc sẽ phải đạt được một thỏa thuận “đình chiến” và bình thường hóa quan hệ thương mại với nhau. Có điều, thời điểm tương lai đó không thể sớm xảy đến. Bởi, hiện cuộc chiến thương mại đã phát triển sang một giai đoạn có thể nói là không có đường rút cho cả hai bên.

Cuộc chiến không có đường lùi

Về phía Mỹ, sự “cứng đầu” của Trung Quốc – sẵn sàng “ăn miếng trả miếng” với Mỹ, trong khi tìm cách vô hiệu hóa một phần sự tấn công của Mỹ bằng biện pháp tiền tệ vốn càng chọc tức Mỹ - buộc Mỹ phải tiếp tục cứng rắn hơn và sẽ cứng rắn tối đa đến mức có thể, tức là đánh thuế toàn bộ lên hàng nhập khẩu từ Trung Quốc (trị giá 500 tỷ đô la Mỹ) với mức thuế cao đến mức gần như “cấm cửa” hàng Trung Quốc.  

Tất nhiên là việc ông Trump quyết trừng phạt Trung Quốc vì lý do an ninh và bảo vệ lợi ích của Mỹ phần nào đó là có thật, nhưng sâu xa sau đó chắc chắn có cả động cơ chính trị, muốn chứng tỏ mình là người “nói được, làm được”, làm như những gì đã hứa với cử tri trong cuộc bầu cử chọn ra ông làm Tổng thống. Ông Trump đương nhiên cũng muốn mình có thêm nhiệm kỳ làm Tổng thống nữa. Mà để làm được những việc này thì đòi hỏi phải có những dấu ấn sâu đậm để lại cho nền kinh tế Mỹ, cho xã hội Mỹ. Vậy thì còn dấu ấn nào sâu đậm hơn dấu ấn buộc Trung Quốc – nước có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới – phải “quỳ gối”, hứa hẹn và thực hiện hàng loạt cam kết mang tính nhượng bộ với yêu cầu của Mỹ như mở cửa thị trường nội địa cho đầu tư cho xuất khẩu từ Mỹ, giảm thặng dư thương mại với Mỹ, giảm thiểu can thiệp của nhà nước vào các hoạt động kinh tế, ngừng các cuộc tấn công mạng, ăn cắp công nghệ cao của Mỹ?  

Và cũng đương nhiên là ông Trump sẽ không chịu đơn phương xuống nước nếu mục tiêu với Trung Quốc nêu trên chưa đạt bởi điều đó sẽ làm ông mất mặt. Quan trọng không kém, ông vẫn còn một số vũ khí được tin rằng cuối cùng sẽ mang lại phần thắng cho ông, cho nước Mỹ. Đó là mức nhập siêu khổng lồ của Mỹ với Trung Quốc làm cho Trung Quốc cần Mỹ hơn, “sợ” Mỹ hơn. Đó cũng là khả năng in đô la bất tận để tài trợ, trang trải cho mọi tổn thất kinh tế, nếu có, gây ra bởi sự trả đũa của Bắc Kinh lên, ví dụ, nông nghiệp của Mỹ, giúp những đối tượng bị thiệt hại ở Mỹ tiếp tục ủng hộ ông Trump. 

Về phía Trung Quốc, một khi mà họ đã phải nói đến chuyện bảo vệ phẩm giá quốc gia một cách thẳng thừng và công khai như vừa qua thì có nghĩa là cuộc chiến thương mại do Mỹ gây ra không còn đơn thuần là cuộc chiến thương mại nữa mà đã trở thành một cái gì đó tương tự như cuộc chiến bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống ách áp bức ngoại xâm. Bởi thế, không chỉ dừng lại với việc “ăn miếng trả miếng” từng đô la, từng phần trăm thuế xuất nhập khẩu với Mỹ, Bắc Kinh sẽ không được phép lùi, không có đường lùi trong thế nhượng bộ.

Hơn thế nữa, việc cúi đầu trước Mỹ không khác gì một hành động hạ nhục lãnh đạo tối cao Trung Quốc, người đã (cổ súy) đặt niềm tin vào hệ thống chính quyền do Đảng Cộng sản lãnh đạo để đương đầu với cuộc chiến hiện nay. Trung Quốc cũng không được phép nhượng bộ Mỹ bởi điều đó có nghĩa là họ phải giảm thiểu sự can thiệp của nhà nước vào phát triển kinh tế, là điều không thể chấp nhận được trong cơ chế đảng cầm quyền như hiện nay.

Ảnh hưởng lên Việt Nam

Cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung không có đường lùi cho đến khi một trong hai bên tổn thất nặng, không gắng gượng được sẽ có ảnh hưởng tiêu cực nhiều hơn tích cực lên Việt Nam.

Đối mặt với mức thuế lên tới 25% hoặc hơn nữa lên một phần đáng kể xuất khẩu vào Mỹ, Trung Quốc có khả năng buộc phải phá giá nhân dân tệ (CNY) đến hàng chục phần trăm hoặc hơn, tùy theo diễn biến leo thang của cuộc chiến. Đã có một số ước tính rằng nếu Mỹ đánh thuế 25% lên hàng nhập khẩu từ Trung Quốc thì nước này phải phá giá CNY thêm ít nhất 12%, dìm nó xuống mức 7,2 CNY/đô la Mỹ từ mức dưới 6,9 CNY/đô la như hiện nay để hóa giải tác động của thuế nhập khẩu vào Mỹ tăng. Đó là chưa kể nếu Mỹ coi hành động phá giá này là thao túng tiền tệ và lấy đó làm cớ để nâng mức thuế nhập khẩu cao hơn nữa thì Trung Quốc thậm chí còn phải phá giá mạnh hơn nữa.

Do cơ chế điều hành tỷ giá hiện nay của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) là dựa một phần trên rổ tiền tệ nên khi CNY mất giá (kéo theo nhiều bản tệ khác có trong rổ tiền tệ tham chiếu của NHNN) nên, về cả kỹ thuật lẫn ý nghĩa kinh tế, chắc chắn tiền đồng sẽ phải để yếu đi theo rỏ tiền này. Lưu ý là sự yếu đi này của tiền đồng mới chỉ là đảm bảo sức cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam không bị suy giảm thêm (giả sử mọi điều kiện khác giữ nguyên), chứ không dám nói là giúp cải thiện nó hơn.

Rủi ro liên quan ở đây là vì một lý do nào đó mà tỷ giá tiền đồng được can thiệp, bảo vệ bằng, ví dụ, tung dự trữ ngoại hối ra can thiệp, điều này không chỉ làm suy giảm trầm trọng tính cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam mà còn tạo ra “quả bom” tỷ giá chờ chực nổ khi sự can thiệp của NHNN buộc phải dừng lại.

Về chuyện hàng hóa Việt Nam sẽ thế chân hàng hóa Trung Quốc để xuất khẩu vào Mỹ, đây là chuyện xảy ra theo kịch bản tối ưu, nên tốt nhất là đừng kỳ vọng như vậy. Trước hết, cũng như Trung Quốc, kinh tế Việt Nam không được công nhận là kinh tế thị trường bởi Mỹ, nên bất cứ sự tăng vọt lên về nhập khẩu từ Việt Nam vào Mỹ sẽ dẫn đến hậu quả là Mỹ áp đặt các biện pháp ngăn chặn như thuế chống bán phá giá, lẩn tránh thuế, gian lận thương mại v.v…

Xuất khẩu sang các nước khác để lấp chỗ trống cũng không hề khả quan hơn, bởi, như đã thấy, đã có một số nước tiến hành xem xét và áp thuế chống bán phá giá lên hàng xuất khẩu của Việt Nam như mới đây có Canada, Thái Lan, Indonesia, EU áp thuế lên thép, Thổ Nhĩ Kỳ áp thuế lên vải sợi…

Chưa kể, khi Mỹ đánh thuế cao lên hàng hóa Trung Quốc, họ đã và sẽ phần nào tạo dựng ra nguồn cung nội địa thay thế cho hàng Trung Quốc nên hàng hóa Việt Nam tương đồng với Trung Quốc cũng khó lọt vào Mỹ. Điều này càng đúng nếu cuộc chiến thương mại kéo dài, đủ giúp sức cho ngành kinh tế nội địa Mỹ phục hồi và lớn mạnh, cạnh tranh ngang ngửa với hàng nhập khẩu. Khi đó, thậm chí xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ còn giảm hơn so với trước khi có chiến tranh thương mại.

Tóm lại, trong bối cảnh cuộc chiến thương mại rất có khả năng kéo dài cần xây dựng một chiến lược bài bản đối phó với những hậu quả tiêu cực của nó lên nền kinh tế Việt Nam. Không nên và không thể theo đuổi chiến lược “tùy cơ ứng biến”, được đến đâu hay đến đó như hiện nay.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).