Monday 20 August 2018

Tránh bất hợp lý trong quản lý thuế (Bài đăng trên TBKTSG, 20/8/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/td/277108/tranh-bat-hop-ly-trong-quan-ly-thue-.html


Dự thảo Luật quản lý thuế do Bộ Tài chính soạn thảo có một số quy định liên quan đến việc khoanh nợ, xóa nợ thuế, tiền chậm nộp và tiền phạt. Bài viết này sẽ phân tích một số bất hợp lý liên quan đến những điều khoản này trong dự thảo luật.

Điều 83 của dự thảo luật quy định các trường hợp được khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp. Theo đó, người nộp thuế là cá nhân đã chết hoặc được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự sẽ được khoanh nợ tiền thuế, tiền chậm nộp.

Đồng thời, điều 69 quy định việc hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế của người được pháp luật coi là đã chết do người được thừa kế thực hiện trong phần tài sản của người đã chết để lại hoặc phần tài sản người thừa kế được chia tại thời điểm nhận thừa kế.

Như vậy, dù được khoanh nợ nhưng khoản nợ thuế của người đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự vẫn sẽ phải được trả bởi người thừa kế của người này. Nhưng do điều 83 không quy định thời hạn được khoanh nợ và trong thời hạn đó thì người thừa kế phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế (sau thời hạn đó nếu không thực hiện sẽ bị chế tài, ví dụ, bị đóng băng mọi giao dịch sang tên tài sản, quyền thừa kế; tài sản thừa kế bị tịch thu, đấu giá để thực hiện nghĩa vụ thuế…) nên sẽ có trường hợp người thừa kế sẽ cố tình chây ì, không hoàn thành nghĩa vụ nộp thuế cho những khoản được khoanh nợ.

Do đó, điều 83 hoặc các điều khoản liên quan khác cần bổ sung thêm thời hạn khoanh nợ tiền thuế và chế tài áp dụng khi quy định này bị vi phạm.

Cũng điều 83 (khoản 4) quy định người nộp thuế không còn hoạt động kinh doanh tại địa chỉ kinh doanh đã đăng ký, không hiện diện tại địa bàn… thì sẽ được khoanh nợ thuế. Về điều khoản này, cần bổ sung thêm cho rõ rằng chỉ được phép khoanh nợ khi cơ quan thuế đã làm rõ, nắm chắc được rằng người nộp thuế không còn kinh doanh ở một địa điểm khác, hoặc không kinh doanh online (sử dụng giấy phép kinh doanh hiện tại...). Nếu không làm rõ được như vậy thì  không được khoanh nợ thuế, và vẫn phải tính lãi và phí phạt chậm nộp thuế như bình thường.

Điều 85 (khoản 2) quy định chủ doanh nghiệp tư nhân, cá nhân đã chết hoặc được pháp luật coi là đã chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự mà không có tài sản để nộp tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt còn nợ thì sẽ được xóa nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt.

Quy định như trên là một lỗ hổng, tạo điều kiện cho, ví dụ, sự thông đồng gian lận hoặc vô trách nhiệm của cán bộ thuế. Chẳng hạn, trước lúc người có nghĩa vụ nộp thuế chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, người này vẫn đang nợ thuế, vẫn đang có thu nhập, có tài sản nhưng không chịu nộp thuế và nhận được sự “bỏ qua” hay thờ ơ của cán bộ thuế trong việc cưỡng chế nộp thuế đúng và đủ. Việc để nợ đọng thuế phát sinh cho đến lúc người có nghĩa vụ nộp thuế được pháp luật xác định không trả được như vậy là có trách nhiệm của cơ quan thuế địa phương.

Do đó, nếu muốn xóa nợ thuế trong trường hợp này thì cần quy định thêm rằng: “Chỉ được xóa nợ tiền thuế và tiền chậm nộp, tiền phạt thuế khi có đủ căn cứ cho thấy trước đó cơ quan thuế đã thực hiện đầy đủ và đúng các biện pháp cưỡng chế nộp thuế theo quy định của pháp luật mà vẫn không thu hồi được thuế và tiền chậm nộp, tiền phạt”.

Khoản 3 điều 85 quy định được phép xóa các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt của người nộp thuế không thuộc trường hợp quy định tại khoản 1, khoản 2 điều này mà cơ quan quản lý thuế đã áp dụng biện pháp cưỡng chế cuối cùng quy định tại khoản 1 Điều 127 của Luật này, và các khoản nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt này đã quá mười năm kể từ ngày hết thời hạn nộp thuế nhưng không có khả năng thu hồi.

Điều khoản trên bất hợp lý vì nếu đã áp dụng tất cả các biện pháp cưỡng chế mà không có khả năng thu hồi thì không cần phải đợi đến 10 năm mới được xóa nợ thuế, mà cần xóa nợ sớm nhất có thể để tránh gáng nặng hành chính, nhân lực cho ngành thuế. Tuy nhiên, cần có thêm điều kiện là chỉ được áp dụng điều khoản này với những khoản nợ thuế và tiền chậm nộp, tiền phạt phát sinh sau ngày Luật này có hiệu lực. Điều này là để tránh chuyện hợp pháp hóa hậu quả của, ví dụ, sự vô trách nhiệm và/hoặc thông đồng của cán bộ thuế với người nộp thuế, dẫn đến nợ đọng thuế kéo dài từ nhiều năm trước đây dồn lại cho đến tận bây giờ để rồi được đề nghị xóa nợ cho… nhẹ nợ!

Điều 87 quy định thẩm quyền xoá nợ tiền thuế, tiền chậm nộp, tiền phạt cho các cấp lãnh đạo từ Thủ tướng xuống đến cấp cục của Tổng cục thuế, hải quan.

Việc trao thẩm quyền xóa nợ ở các mức tương ứng với cấp bậc lãnh đạo là điều bất hợp lý. Mặc dù logic của việc này có thể là những vị lãnh đạo liên quan này chắc chắn sẽ trong sáng, công tâm, và có trách nhiệm; họ chỉ phê duyệt xóa nợ thuế theo đúng quy định của pháp luật. Tuy nhiên, nếu vậy thì logic này đòi hỏi các vị lãnh đạo này phải đọc từng hồ sơ xóa nợ thuế để biết chắc chắn rằng quyết định của mình là đúng đắn, phù hợp với quy dịnh của pháp luật.

Đương nhiên là với hàng ngàn cho đến cả hàng vạn hồ sơ xin xóa nợ thuế nằm trên bàn làm việc của từng vị lãnh đạo này (càng xuống dưới thì càng nhiều hơn) thì việc xem xét toàn diện và cẩn thận từng hồ sơ là điều không tưởng. Như thế có nghĩa là những vị lãnh đạo này sẽ lại phải dựa vào, “ủy thác” cho đội ngũ trợ lý, giúp việc “ký nháy” trình lên để họ chỉ việc ký (mà thậm chí cũng chẳng có thời gian làm chuyện này nữa). Nói cách khác, việc phân cấp thẩm quyền xóa nợ theo độ lớn của khoản nợ như đề xuất chỉ là hình thức mà rốt cuộc lại tùy thuộc vào đề xuất của cán bộ thuế từ cấp cơ sở.

Vậy thì nếu không thể đặt lòng tin vào trách nhiệm và sự công tâm, trong sáng và ngay thẳng của cán bộ thuế cơ sở trong việc xóa nợ thuế thì tốt nhất là không quy định việc/thẩm quyền xóa nợ thuế mà hãy để cho khoản nợ thuế tự động bị xóa bỏ sau một thời gian nhất định, sau khi cơ quan thuế đã thực hiện mọi biện pháp cưỡng chế thuế, như tác giả đề xuất liên quan đến khoản 3 điều 85 ở trên.

Nếu muốn làm chắc hơn thì có thể quy định thêm rằng khoản nợ thuế sẽ bị xóa bỏ sau X tháng/năm, sau khi cơ quan thuế đã thực hiện mọi biện pháp cưỡng chế thuế, và được xác nhận bởi khi cơ quan thanh tra thuế (hoặc một cơ quan thanh tra, giám sát độc lập nào đó của Chính phủ); và/hoặc việc xóa nợ thuế này sẽ được thanh tra/kiểm toán định kỳ hàng quý/năm…

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).