Sunday 21 April 2019

Siết cho vay trên 3 tỉ đồng để mua nhà? (Bài đăng trên TBKTSG, 22/4/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/287608/siet-cho-vay-tren-3-ti-dong-de-mua-nha-.html


Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới đưa ra lấy ý kiến cho dự thảo Thông tư tư về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của ngân hàng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Một trong những điểm mới, quan trọng của dự thảo là sự điều chỉnh tăng gấp 3 lần về hệ số rủi ro cho vay của ngân hàng lên 150% với những khoản cho vay cá nhân phục vụ nhu cầu đời sống có số dư nợ gốc từ 3 tỷ đồng trở lên. Với khoản dư nợ gốc dưới 1,5 tỷ đồng thì hệ số rủi ro vẫn là 50%.

Câu hỏi đầu tiên liên quan đến quy định trên là tại sao mốc 3 tỷ đồng lại được chọn, và điều này có ý nghĩa gì?

Có thể nói là mốc 3 tỷ đồng là mốc để phân loại bất động sản mà người mua muốn nhắm đến. Vì ngân hàng chỉ cho vay đến một tỷ lệ nhất định trong giá trị/giá bán bất động sản mà người vay muốn mua, chẳng hạn tối đa là 70%, nên suy ra tiếp là giá trị bất động sản mà người vay tiềm năng của ngân hàng nhắm đến là trên 4 tỷ đồng. Như vậy, bất động sản này có thể được xếp vào loại trung cao cấp.

Nói cách khác, đối tượng mua và phân khúc bất động sản này không thuộc dạng được ưu tiên, vì, trước hết, không phải là... đại trà, là số đông ở Việt Nam. Thay vào đó, phân khúc bất động sản tầm độ 2 tỷ đồng trở xuống mới là phổ biến, phục vụ nhu cầu nhà ở cho số đông gia đình. Hơn nữa, với phân khúc trung cao cấp, người mua được coi là tầng lớp trung lưu trở lên nên họ vẫn, về nguyên tắc, dễ “xoay sở” hơn về mặt tài chính mà không nhất thiết phải quá phụ thuộc vào vay ngân hàng, cũng như quá nhạy cảm với lãi suất ngân hàng được điều chỉnh  tăng do ảnh hưởng của dự thảo Thông tư.

Như vậy, dự thảo Thông tư xem ra muốn “một mũi tên trung hai đích”, vừa siết lại tín dụng cho phân khúc nhu cầu không được hoan nghênh, vừa vẫn tiếp tục mở đường cho tín dụng ngân hàng chảy đến phân khúc bất động sản bình dân, đáp ứng nhu cầu để ở chính đáng của người dân thu nhập trung bình và thấp. Bởi vậy, nếu nhìn từ thị trường bất động sản thì chỉ có phân khúc trung cao cấp là bị ảnh hưởng mà thôi. Ngược lại, có thể nói thêm là do tín dụng ngân hàng sẽ dồn cho phân khúc bình dân, ngân hàng sẽ không còn quá “kén cá chọn canh” như trước (giữa cho vay phân khúc bình dân hay trung cao cấp), nên phân khúc bình dân sẽ được hưởng lợi hơn so với trước.

Dù mục đích của dự thảo Thông tư, nếu đúng như phân tích ở trên, tỏ ra rất chính đáng nhưng dù muốn hay không, nếu được thực thi, nó cũng sẽ “vô tình” tước bỏ/hạn chế quyền lợi chính đáng của một bộ phận dân chúng có nhu cầu chính đáng sở hữu bất động sản trung, cao cấp để ở phù hợp với mức thu nhập và lối sống của mình, đặc biệt với những người sở hữu lần đầu (và duy nhất) bất động sản loại này.

Đồng thời, cách làm trên cũng thúc đẩy ngân hàng tìm cách đồn thêm tín dụng vào phân khúc bình dân, kể cả cho vay dưới chuẩn vì họ phải tìm kiếm thị phần và cơ hội để bù đắp cho sự sụt giảm từ phân khúc trung cao cấp. Điều này không chỉ tạo rủi ro lớn hơn cho hệ thống ngân hàng mà còn không đóng góp gì mấy cho chủ trương hướng tín dụng ngân hàng đến những khu vực ưu tiên của nền kinh tế, đặc biệt trong bối cảnh tăng trưởng tín dụng chung của toàn ngành (và từng ngân hàng) đang dần bị siết lại hàng năm theo hướng giảm tỷ trọng tổng dư nợ tín dụng trên GDP đang ở mức quá cao xuống gần với mức của khu vực và thế giới.

Vì cách làm chính sách “giết nhầm còn hơn bỏ sót” là điều cần được hạn chế nên có lẽ NHNN nên phối hợp với các cơ quan chức năng khác đưa ra những chính sách phù hợp và có tính chọn lọc hơn, vừa chống được động cơ đầu cơ bất động sản, vừa vẫn tạo điều kiện cho người dân sở hữu và ở trong bất động sản phù hợp với nhu cầu và khả năng tài chính của mình.

Những chính sách theo hướng trên có thể gồm: (i) ngân hàng sẽ giảm tỷ lệ vốn vay tối đa trên giá trị bất động sản cho những bất động sản thứ hai trở lên mà người vay (sẽ) sở hữu; (ii) giá trị khoản cho vay mua bất động sản sẽ được quyết định trên cơ sở tổng dư nợ người vay có với hệ thống ngân hàng, tài chính (càng nợ nhiều, càng được vay ít); (iii) chính sách thuế bất động sản được sửa đổi để đánh thuế nặng vào bất động sản thứ hai trở lên; (iv) đặt ra tỷ lệ trần tín dụng cho bất động sản (và/hoặc cho vay tiêu dùng) nói chung trên tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng; (v) từ bất động sản thứ hai được mua bằng vốn vay ngân hàng  trở lên, việc chuyển nhượng quyền sở hữu chỉ được thực hiện sau, ví dụ, ba năm...

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).