Để cho công bằng, tớ sẽ đợi phản hồi của TBKTSG trước khi
comment về lời đáp của đồng chí Chí.
--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Liên quan đến chủ đề hạ lãi suất, Chủ tịch Ủy ban Giám
sát Tài chính Quốc gia Vũ Viết Ngoạn và tác giả Phạm Đỗ Chí (“các tác giả”) đã
có một bài viết nhan đề “Để tránh lạm phát và đình đốn”, đăng trên TBKTSG số ra
ngày 17-3. Bài viết tuy ngắn nhưng lại chứa đựng nhiều vấn đề lớn
gây tranh luận về mặt học thuật.--------------------------------------------------------------------------------------------------------------------------
Các tác giả đề cập đến mô hình IS-LM để minh họa cho sự
phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa. Trước tiên, các tác giả cho rằng “có vẻ như khả
năng sản xuất và hiệu quả nền kinh tế đang đến các giới hạn
đặt ra bởi sự thiếu nhân công có tay nghề cao, đất đai có năng suất cao và công
nghệ bị giới hạn… đã đặt ra những trở ngại đáng kể cho chu kỳ sản
xuất”. Sau đó, các tác giả đề xuất sử dụng chính sách tài khóa chặt chẽ (di
chuyển đường cong IS sang trái) kết hợp với chính sách tiền tệ nới lỏng từ từ
(di chuyển đường LM sang phải) để nhằm đối phó với lạm phát và giảm lãi suất, đồng
thời nâng cao Y (sản lượng) nhằm làm giảm tình trạng “đình đốn sản xuất”.
Với nhận định như ở đoạn trên (“có vẻ như...”) thì các
tác giả đã gián tiếp thừa nhận rằng nền kinh tế Việt Nam đã ở (hoặc tiệm cận rất
gần đến) mức tiềm năng cho phép (tức nền kinh tế đã (gần) đạt đến mức toàn dụng
trong dài hạn, với các yếu tố đầu vào như hiện thời và mô hình tăng trưởng như
hiện thời). Từ đây sẽ dẫn đến mấy nghịch lý, mâu thuẫn, bất cập như sau. Thứ nhất,
nếu nền kinh tế đã ở (gần) mức toàn dụng rồi thì nó lại mâu thuẫn với chính lập
luận ban đầu (và cũng là điều dẫn nhập cho bài viết) của các tác giả rằng nền
kinh tế Việt Nam đang ở tình trạng đình đốn sản xuất – tức là tình trạng mà nền
kinh tế hoạt động ở dưới mức tiềm năng, mức toàn dụng. Thứ hai, quan trọng hơn, nếu đã thừa nhận rằng nền kinh tế đang ở (gần) mức toàn dụng rồi thì cũng xin được nhắc lại với các tác giả rằng, theo lý thuyết, nếu nới lỏng chính sách tiền tệ (hạ lãi suất) nhằm thúc đẩy cho sản lượng Y vượt quá mức tiềm năng (toàn dụng) thì giá cả (tức lạm phát) sẽ nhanh chóng tăng lên còn sản lượng Y thực tế sau một giai đoạn tăng lên ngắn ngủi sẽ nhanh chóng sụt giảm, trở về mức tiềm năng trong dài hạn.
Nói cách khác, nếu giả sử đúng như Việt Nam đang tăng trưởng với tốc độ là 6%/năm như công bố, và giả sử đúng như các tác giả nhận định rằng nền kinh tế Việt Nam đã đạt mức toàn dụng thì chính sách tiền tệ nới lỏng và hạ lãi suất như đề xuất của các tác giả không mang lại tác dụng gì cho thúc đẩy tăng trưởng sản lượng, ngoài tác hại hiển nhiên và tất yếu là lạm phát tăng lên.
Trên hết, cho dù có biện luận rằng nền kinh tế Việt Nam vẫn thấp xa so với mức toàn dụng, thì cũng cần phải nhớ lại một điều cơ bản là chính sách tiền tệ dùng để kích thích tăng trưởng sản lượng (GDP) chỉ có tác dụng trong ngắn hạn, và vô tác dụng đối với tăng trưởng trong dài hạn (ngoài việc làm tăng lạm phát). Tăng trưởng kinh tế trong dài hạn lúc đó sẽ phụ thuộc một phần vào khoảng cách giữa sản lượng Y hiện tại và sản lượng ở mức tiềm năng toàn dụng, cũng như mô hình và cách thức tăng trưởng hợp lý để mở rộng sản lượng tiềm năng hơn nữa, tạo điều kiện tăng thêm “room” cho tăng trưởng Y.
Trở lại với đề xuất kết hợp thắt chặt chính sách tài khóa và nới lỏng chính sách tiền tệ như trong lập luận dùng mô hình IS-LM trên của các tác giả. Thực chất của đề xuất này chẳng qua cũng chỉ là dựa vào chính sách tiền tệ nới lỏng để kích thích tổng cầu (thay vì dựa vào chính sách tài khóa như trước đây), từ đó hy vọng sẽ làm tăng nhu cầu đầu tư lợi dụng lãi suất thấp, và nhờ đó tăng Y. Lưu ý thêm một điều là, theo đề xuất, thì IS sẽ bị dịch chuyển sang trái, tức là chính sách tài khóa không phải là được sử dụng “chặt chẽ” như đề xuất nữa mà thực ra là bị thắt lại (chi tiêu công bị giảm đi). Điều này có nghĩa là chính sách tiền tệ càng phải được nới lỏng thêm nữa (so với trường hợp chính sách tài khóa không bị thắt chặt) để bù đắp cho phần tổng cầu đã bị suy giảm bởi thắt chặt chính sách tài khóa. Mà như nói ở trên, chính sách thúc đẩy tăng trưởng dựa vào nới lỏng chính sách tiền tệ chỉ có tác dụng trong ngắn hạn và sẽ để lại hậu quả là lạm phát cao.
Các tác giả áp dụng một cách máy móc mô hình IS-LM. Mô hình này giả định rằng lãi suất là yếu tố duy nhất tác động đến đầu tư. Khi lãi suất hạ thì đầu tư sẽ phải tăng lên.
Thực tế, đầu tư còn phụ thuộc vào các điều kiện liên quan đến tín dụng. Các ngân hàng có sẵn lòng cho vay doanh nghiệp hay không nhiều khi không liên quan gì đến lãi suất. Ví dụ, nếu các ngân hàng nâng tiêu chuẩn cho vay lên thì tổng mức đầu tư trong nền kinh tế sẽ không có phản ứng gì với chính sách tiền tệ nới lỏng cả. Trong trường hợp này, đường IS trở nên rất dốc, và, vì thế, dù có tăng cung tiền làm đường LM dịch chuyển sang phải thì sản lượng Y cũng không tăng lên (đáng kể). Kết quả rõ nét hơn là giá cả tăng lên vì tổng cầu tăng lên. Nói cách khác, trong trường hợp này, chính sách tiền tệ nới lỏng (hạ lãi suất) không kích thích làm đầu tư tăng lên, và do đó, sản lượng Y không tăng lên. Trường hợp kinh tế đình trệ ở Nhật trong thập kỷ 90 và Mexico năm 1994 là ví dụ điển hình cho tình trạng này.
Ở Việt Nam, tình hình hiện nay cũng chính là hiện thân của tình trạng chính sách tiền tệ nới lỏng nhưng lãi suất cho vay không hạ thấp đi đáng kể hoặc các doanh nghiệp vẫn tiếp tục phàn nàn khó tiếp cận được vốn vay ngân hàng (có thể nói rằng Việt Nam đang vướng vào “bẫy thanh khoản” (liquidity trap)). Lúc đó, NHNN có tăng cung tiền nhưng không dẫn đến hạ lãi suất cho vay doanh nghiệp, do đó không làm tăng sản lượng Y. Nói cách khác, chính sách tiền tệ nới lỏng trong trường hợp này cũng không có tác dụng làm tăng sản lượng Y. Như vậy, để mô hình trên phát huy tác dụng như trong đề xuất của các tác giả thì có lẽ các tác giả phải đề xuất thêm một biện pháp nữa là bắt buộc các ngân hàng phải cho doanh nghiệp vay theo nhu cầu của doanh nghiệp và theo lãi suất ấn định mà doanh nghiệp cho rằng là chấp nhận được chăng?
Tôi vừa đưa lên Blog của tôi bình luận như sau:
ReplyDeleteRất đồng tình với quan điểm của anh Ngọc trong bài viết dưới đây. Ngay khi đọc bài "Để tránh lạm phát đình đốn" của TS Chí và TS Ngoạn", tôi đã viết bình luận như sau: "Nhìn thấy bài này trên báo có cảm giác hơi lạ vì thấy đụng chạm cùng lúc tới cả hai chính sách tiền tệ và tài khóa, lại thấy có đồ thị minh họa kèm nhiều công thức toán học... chứng tỏ người viết có trình độ rất siêu mới dám đề cập cùng lúc tới 2 loại chính sách nhạy cảm và công phạt để giải quyết tình hình hiện nay. Vội đọc ngay, nhưng càng đọc càng chán vì mâu thuẫn, lủng củng tùm lum. Hết bài mới nhìn tới tên tác giả; tưởng bài của giáo viên nào, hóa ra là 2 bác tiến sĩ mà tôi từng quen biết và cũng từng viết nhận xét trên Blog này. Thấy hai bác khoe kiến thức tùm lum, tôi lại nhớ 1 bác vừa bị báo chí lôi chuyện bằng thật, bằng rởm ra bàn tán; còn bác kia, khi gặp tôi lần cuối ở Vientiane năm 2004, đã một mực khẳng định bằng TS của anh là bằng thật, của đại học Pennsylvania hẳn hoi...".
Xem: http://toithichdoc.blogspot.com/2012/03/e-tranh-lam-phat-inh-on.html
http://toithichdoc.blogspot.com/2012/03/rat-ong-tinh-voi-quan-iem-cua-anh-ngoc.html#more
ReplyDeleteCám ơn anh đã có một số chia xẻ về bài này. Tôi viết bài này khi thực sự nổi giận vì động cơ buôn bán chữ nghĩa của những người này. Tôi nhớ đồng chí Ngoạn khi thanh minh thanh nga về chuyện bằng giả của đồng chí ấy, có đưa ra những chi tiết để người ta thấy rằng quả thật đồng chí ấy có học thật (ví dụ phải nhờ bạn mua sách cũ ở nước nào đó). Kết lại lời giải thích của mình, đồng chí ấy “bật mí” rằng sẽ tiến hành công trình nghiên cứu này, nghiên cứu kia, đại loại cho thấy rằng đồng chí ấy thực sự rất giỏi, rất có khả năng chữ nghĩa. Nay họ viết bài này như thể họ là những chuyên gia thực thụ, nhưng tiếc rằng nội dung trong bài chỉ cho thấy 2 cái thùng rỗng kêu to, kèm thêm sính chữ Tây để dọa thiên hạ.
DeleteRồi còn đồng chí Chí nữa, trả lời mà cứ lấp liếm (tôi sẽ phân tích ngay sau đây), đánh bùn sang ao, từ cái sai nọ lòi ra cái sai kia. Nói chung là tôi không hề ân hận đã dùng những từ ngữ hôm trước cho đồng chí Ngoạn và các đồng chí tương tự.