Friday, 30 March 2012

Lần này đến lượt đồng chí TS Cao Sĩ Kiêm!

Tớ đang và sẽ cố gắng lần lượt “lôi” từng đồng chí TS lên trên blog này hoặc lên mặt báo để góp vui cho bạn đọc (có lẽ tớ nên mở một cái chuyên mục đại loại không phải như “Tiến sĩ cười” mà là “Tiến sĩ không cười nổi” chăng?). Hôm nay đến lượt đồng chí Kiêm, người mà từ lâu lắm rồi tớ đã nhiều lần định lôi lên báo vì những phát biểu và nhận định của mình nhưng chưa có dịp.

Trong bài “Lạm phát,lãi suất hạ thì doanh nghiệp kiệt sức” trên VnExpress, đồng chí phóng viên có cho biết thế này: “Trong khi sản xuất có chậm lại thì tồn kho của các doanh nghiệp tăng gần 35% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó chế biến - bảo quản hoa quả tăng hơn 87%, sắt thép tăng gần 60%... Ngoài ra, tổng mức bán lẻ hàng hóa, dịch vụ cũng chỉ tăng khoảng 5% so với cùng kỳ nếu loại trừ yếu tố giá. Theo các chuyên gia kinh tế, những chỉ báo nêu trên là những dấu hiệu đầu tiên của hiện tượng đình đốn trong sản xuất.

Thông thường, khi sản xuất có dấu hiệu “đình đốn” (cứ cho là đúng như vậy) vì tồn kho tăng cao thì có nghĩa là cung đang vượt cầu (cung có thể giữ nguyên như trước nhưng cầu đã bị giảm bởi chính sách tiền tệ thắt chặt). Cũng cần nói thêm với các đồng chí chuyên gia kinh tế liên quan là sản xuất trong tình trạng như vậy thì không thể gọi là đình đốn được vì năng lực sản xuất đâu có bị mất mát, sứt mẻ, ảnh hưởng? Chủ doanh nghiệp không thể duy trì và tăng sản xuất lên đơn giản chỉ vì họ không tiêu thụ hết sản phẩm của mình với giá như hiện tại, nên mới làm tăng tồn kho, dẫn đến sản xuất không có lãi nữa nên phải sản xuất cầm chừng hoặc thu hẹp sản xuất.

Mà như tớ đã viết trong bài Cáchthức nhanh nhất, an toàn nhất để phục hồi và tăng trưởng bền vững”, việc cần làm đối với các doanh nghiệp hiện nay là phải hạ giá để giải phóng tồn kho, chứ không thể, không nên trông đợi vào chính sách tiền tệ nới lỏng của NHNN, sự “thấu hiểu” và “tốt bụng” của các ngân hàng thương mại khi sẽ tiếp tục cho vay tiền (với lãi suất hợp lý) để doanh nghiệp cầm cự. Cũng trong hoàn cảnh này thì chẳng doanh nghiệp nào nên tiếp tục vay ngân hàng để sản xuất và mở rộng sản xuất thêm rồi tiếp tục chất đống sản phẩm ở trong kho. Còn các doanh nghiệp như sắt thép, xi măng v.v... thì có “chết” cũng không có gì oan cả vì tự mình nhảy vào trào lưu sản xuất ra chúng để rồi dư thừa quá mức, bất chấp những cảnh báo sớm.

Thế mà đồng chí Kiêm cho rằng: “...Vấn đề lớn nhất đối với các cơ sở sản xuất hiện nay là lãi suất cao và khả năng tiếp cận vốn. Tình trạng này tiếp tục kéo dài sẽ vượt quá sức chịu đựng của doanh nghiệp, dẫn đến giải thể, đóng cửa ở quy mô lớn. Trong trường hợp này, hậu quả sẽ không còn dừng lại ở kinh tế mà sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới xã hội khi rất nhiều công ăn việc làm bị mất”.

Thật oái oăm khi đồng chí Kiêm và các đồng chí hướng khác của đồng chí Kiêm “xui”, hoặc dồn doanh nghiệp vào con đường tự mình chôn mình và làm khó cho cả nền kinh tế với việc tăng áp lực ép NHNN nới lỏng chính sách tiền tệ và hạ lãi suất nhằm tiếp cận vốn dễ hơn, lãi thấp hơn.

Lẽ ra, thay vì kiến nghị về phía doanh nghiệp như vậy (tớ cũng hiểu “hoàn cảnh” của đồng chí Kiêm, vì đồng chí là Chủ tịch Hội doanh nghiệp mà), thà đồng chí cứ kiến nghị Chính phủ tiếp tục nối lại một gói kích cầu “nổi tiếng” năm 2009 để kích thích dân chúng và doanh nghiệp cả nước tiêu thụ bằng hết sản phẩm tồn kho và, từ đó, hối thúc doanh nghiệp (và cũng là ngân hàng) bỏ thêm vốn đầu tư tăng sản xuất có phải hơn không? Tất nhiên, lúc đó đồng chí Kiêm cũng nên “lờ” đi (và cả tớ cũng nên tự nhét tay bịt mồm mình) các hậu quả của chính sách kích cầu cực kỳ “Việt Nam” của (Chính phủ) Việt Nam như hồi năm 2009-2010.

Tóm lại, những phát biểu dễ dãi với hàm lượng chất xám thấp của đồng chí Kiêm vẫn còn được chuộng, được trích dẫn tràn lan như hiện nay, tuy có thể khó hiểu một chút từ góc độ chuyên môn, nhưng lại dễ hiểu vì luôn đi kèm với những câu, đại loại, như: “Trong trường hợp này, hậu quả sẽ không còn dừng lại ở kinh tế mà sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới xã hội khi rất nhiều công ăn việc làm bị mất”, vốn rất được lòng công chúng (i.e., mị dân).


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).