https://thesaigontimes.vn/nghich-ly-ket-qua-kinh-doanh-tot-nhung-gia-co-phieu-lai-giam/
Những đợt thoái
trào của thị trường chứng khoán như hiện nay thường để lại những thắc mắc xem
ra rất khó lý giải, có thể coi là nghịch lý, rằng doanh nghiệp niêm yết có kết
quả kinh doanh tốt, tình hình kinh tế vĩ mô cũng ổn (tăng trưởng kinh tế thuộc
dạng cao nhất thế giới) nhưng giá cổ phiếu của doanh nghiệp lại “lội ngược
dòng”, giảm mạnh.
Ví dụ cụ thể cho
tình trạng trên là cổ phiếu ngân hàng. Kết quả kinh doanh 9 tháng đầu năm của
28 ngân hàng nhìn chung khá khả quan, với 27 ngân hàng báo lãi (hai ngân hàng
trong số này báo lãi giảm so với cùng kỳ năm trước). Bảy ngân hàng báo lãi tới
trên 10 ngàn tỷ đồng. Chỉ có một ngân hàng duy nhất báo lỗ (1). Tuy vậy, như đã
thấy, giá cổ phiếu của các ngân hàng, liên tục lao dốc, phá hết đáy này đến đáy
khác.
Để tìm câu trả lời,
điều cần lưu ý trước hết là các nhà đầu tư, các trader cổ phiếu có xu hướng
hành động theo châm ngôn “mua theo tin đồn, bán khi tin ra”, tức họ sẽ mua và đẩy
giá cổ phiếu lên khi có tin đồn hay kỳ vọng và bán ngay khi tin tức được công bố,
kể cả là tin tốt. Đây chính là một trong những lý do giải thích tại sao giá một
cổ phiếu nào đó lại giảm khi doanh nghiệp công bố tin tốt, thường là trong báo
cáo tài chính.
Báo cáo tài chính
hàng quý một mặt cung cấp tính minh bạch về tình hình hoạt động của doanh nghiệp,
nhưng mặt khác nó cũng dẫn đến hình thành và tích tụ các tin đồn bởi khoảng
cách ba tháng giữa các kỳ báo cáo. Tin tốt các quý trước không nhất thiết sẽ
kéo dài sau đó, trong khi nhiều yếu tố nội tại (tin đồn) và ngoại lai xen vào, ảnh
hưởng đến việc định giá cổ phiếu tại thời điểm mua/công bố báo cáo.
Hơn nữa, bất cứ sự
sai lệch đáng kể nào so với kỳ vọng hay bất cứ tuyên bố gây ngạc nhiên lớn nào
cũng có tác động lên giá cổ phiếu. Chẳng hạn, dù doanh nghiệp công bố kết quả
kinh doanh tích cực nhưng lại thấp hơn kỳ vọng mà thị trường, các nhà phân tích
đặt ra trước đó thì cổ phiếu của doanh nghiệp vẫn có nhiều khả năng bị định giá
thấp đi.
Một số tình huống
giảm giá cổ phiếu khác cũng liên quan đến lợi nhuận công bố. Ví dụ, các nhà
phân tích kỳ vọng doanh nghiệp A sẽ đạt được mức lợi nhuận trên mỗi cổ phần
(EPS) là 0,8, trong khi doanh nghiệp báo cáo EPS thực tế ở mức 0,85, tức còn tốt
hơn kỳ vọng (+6,3%). Dẫu vậy, nhà đầu tư vẫn phản ứng bằng cách bán ra cổ phiếu
của A. Lý do là dù tin công bố là “tốt” nhưng nhiều nhà đầu tư lại kỳ vọng một
mức còn cao hơn thế. Chẳng hạn nếu doanh nghiệp có lịch sử đánh bại các ước
tính của giới phân tích ở mức 10% hay hơn thì mức tăng 6,3% này lại trở thành nỗi
thất vọng.
Hơn thế, mỗi nhà
đầu tư cũng thường có phân tích hay cảm nhận riêng của mình về doanh nghiệp,
ngành, và cổ phiếu. Những phân tích, cảm nhận này qua nhiều kênh sẽ tập hợp với
những phân tích, cảm nhận của những người khác tạo nên một con số về định giá
mang tính đồn thổi chứ không công bố công khai như của các nhà phân tích trong
các công ty chứng khoán. Định giá đồn thổi với định giá của các nhà phân tích
nhiều khi rất khác nhau. Trong ví dụ trên, chẳng hạn EPS đồn thổi là 0,9. Doanh
nghiệp A báo cáo EPS 0,85 tức là thấp hơn mức kỳ vọng đồn thổi, dù là cao hơn mức
kỳ vọng của các nhà phân tích, nên vẫn có thể gây ra một làn sóng bán tháo từ tập
hợp nhiều nhà đầu tư.
Trong các báo cáo
tài chính, doanh nghiệp thường đưa ra một số kỳ vọng, nhận định hay kế hoạch của
ban giám đốc cho tương lai. Đây cũng là một yếu tố lớn ảnh hưởng đến định giá
cơ bản. Doanh nghiệp công bố kết quả kinh doanh khớp với hoặc vượt kỳ vọng của
thị trường nhưng lại điều chỉnh giảm doanh thu, lợi nhuận, dòng tiền kỳ vọng
trong tương lai thì có khả năng sẽ làm giá tương lai của cổ phiếu. Điều này giải
thích tại sao giá cổ phiếu vẫn có thể lao dốc dù kèm với tin tốt (kết quả kinh
doanh bằng hoặc tốt hơn kỳ vọng).
Một lý do có thể
nghĩ đến khác là ảnh hưởng của các trader “gây nhiễu”. Đây là các nhà đầu tư
không chuyên, hoặc các nhà phân tích theo trường phái kỹ thuật. Những người này
thường không phân tích cơ bản các khoản đầu tư tiềm năng mà dựa vào tin tức, chỉ
số phân tích kỹ thuật, hay xu hướng. Họ thường có quyết định đầu tư khá bốc đồng,
phản ứng thái quá với tin cả tốt lẫn xấu. Nên giả sử cổ phiếu của doanh nghiệp
A bắt đầu bị bán tháo bởi một số nhà đầu tư thì xu hướng bán tháo này sẽ được đẩy
lên mạnh mẽ bởi các nhà đầu tư gây nhiễu này.
Lý do cuối cùng
là ảnh hưởng của các yếu tố vĩ mô và vi mô. Yếu tố vĩ mô gồm những thứ như lãi
suất tăng, hay sự chuyển hướng sang các tài sản đầu tư ít rủi ro (ví dụ tiền gửi
ngân hàng) có khả năng gây sức ép lên giá cổ phiếu dù doanh nghiệp công bố tin
tốt.
Những yếu tố vi mô trong một ngành cụ thể, chẳng hạn (triển vọng) kết quả kinh doanh của doanh nghiệp đối thủ tốt hơn của doanh nghiệp A cũng sẽ làm giảm khẩu vị của nhà đầu tư với cổ phiếu doanh nghiệp A dù họ cũng công bố thông tin tốt (nhưng kém hơn đối thủ).
No comments:
Post a Comment