Friday 10 October 2014

Tắc thông quan điện tử - Tại hệ thống hay tại người?


Như TBKTSG đã đưa tin, hệ thống thông quan tự động VNACCS/VCIS (được xây dựng trong 2 năm bằng vốn ODA của Nhật Bản) bắt đầu được áp dụng từ ngày 1-4-2014, nhưng đã thường bị lỗi, gây ách tắc cho việc thông quan và làm hại nhiều doanh nghiệp xuất nhập khẩu.
Tuy chưa có một giải thích chính thức từ phía Tổng cục Hải quan về tình trạng hoạt động “tậm tịt” này nhưng TBKTSG đã trích lời của một quan chức hải quan khi vị này có lỗi là do sự không phù hợp của hệ thống này ở Việt Nam bởi Việt Nam khác với Nhật Bản! Ngay cả Bộ tài chính cũng cho rằng hệ thống thông quan tự động đang áp dụng tại Nhật bản khi triển khai tại Việt Nam trên nền tảng pháp lý của Việt Nam thì không tránh khỏi những khó khăn.

Vậy VNACCS/VCIS là cái gì và tại sao nó lại không hoạt động tốt ở Việt Nam?
VNACCS/VCIS là hệ thống thông quan tự động phiên bản Việt Nam được xây dựng trên mô hình hệ thống thông quan điện tử của Nhật (Nippon Automated Cargo and Port Consolidated System, NACCS), và hệ thống thông tin tình báo hải quan Nhật (Customs Intelligence Database System, CIS). Tập đoàn NTT Data là đơn vị chủ thầu, phối hợp với các chuyên gia của JICA, lắp đặt, đào tạo và chuyển giao hệ thống, công nghệ, và phần mềm cho Việt Nam.

Theo thông tin phía Nhật, ngoài những chức năng tương tự như hệ thống đang hoạt động tại Nhật, hệ thống thông quan tự động này của Việt Nam còn được “Việt hóa” khi có thêm những chức năng riêng cho Việt Nam, sau khi các chuyên gia Nhật nghiên cứu và đánh giá kỹ lưỡng khuôn khổ pháp luật, thông lệ và điều kiện ở Việt Nam. Chẳng hạn, hệ thống này thực hiện được việc thông quan điện tử (tự động) trên bộ (khác với của Nhật, chỉ có thông quan đường biển và đường hàng không, vì Nhật không có biên giới trên bộ với các quốc gia khác). Hệ thống này cũng cho phép dùng chữ ký điện tử theo quy định trong Luật giao dịch thương mại điện tử. Ngoài ra, hệ thống này cũng được kết nối với hệ thống hải quan hiện tại của Việt Nam được dùng trong việc thu thuế và xác định thuế hải quan.
Ngoài chuyện “Việt hóa”, phía Nhật cũng nhấn mạnh đến việc đào tạo cán bộ hải quan Việt Nam trong các đợt tập huấn trong và ngoài nước dưới sự hướng dẫn và giám sát của các chuyên gia nước ngoài. Bên cạnh đó, Tổng cục Hải quan đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm qua các cuộc thí điểm ứng dụng thông quan điện tử ở một số địa phương và trong một số ngành, với một số doanh nghiệp trong suốt 2 năm qua.

Tóm lại, với quá trình chuẩn bị và triển khai kỹ lưỡng thật khó có thể nói một cách đơn giản rằng do sự khác biệt giữa 2 nước, 2 nền tảng pháp lý nên hệ thống hoạt động không ổn định. Bản thân hệ thống này không đơn thuần là một phần cứng máy móc bất biến mà được điều khiển bởi những quy trình và phần mềm có thể thay đổi và điều chỉnh phù hợp, tùy theo yêu cầu sở tại.
Quay trở lại với bài báo trên TBKTSG trích dẫn lý giải của vị quan chức hải quan cho một số trường hợp trục trặc trong việc thông quan tự động. Lý do đầu tiên là sự khác biệt trong các hệ thống vệ tinh đi kèm như như hệ thống kế toán thuế, hệ thống quản lý rủi ro, giá, xử lý vi phạm. Đương nhiên là các hệ thống này ở Việt Nam sẽ khác (xa) với hệ thống tương tự của Nhật, và chuyện này chắc chắn sẽ được hình dung trước khi bắt tay ký kết thực thi dự án. Nhưng vì thế mới cần đến cả mấy năm trời để chuẩn bị, xử lý và giải quyết làm sao cho hệ thống vận hành xuyên suốt. Vẫn hợp tác, vẫn nghiệm thu và tất toán dự án kể cả khi các khác biệt này không được xử lý rốt ráo chứng tỏ có vấn đề ở những người tham gia dự án này (kể cả phía Nhật).

Lý do tiếp theo mà vị quan chức hải quan nêu ra là do hệ thống kế toán, theo dõi thu nợ thuế của Việt Nam chưa tích hợp với hệ thống VNACCS/VCIS. Đây rõ ràng cũng là một lỗi chủ quan của con người, mà cụ thể là những người thực thi dự án, chứ chẳng có liên hệ gì đến sự khác biệt giữa 2 quốc gia, 2 nền tảng pháp lý cả.
Ngay cả lý do Bộ tài chính đưa ra, cụ thể do phía Nhật chưa chuyển giao hết các chức năng, một số chức năng đã chuyển giao không phù hợp với pháp luật Việt Nam, và Việt Nam không được phép hiệu chỉnh các nội dung do Nhật thiết kế... cũng đều là những lỗi chủ quan, của những người thực hiện của cả 2 phía trong quá trình đàm phán, thiết kế và thực thi dự án.

Như vậy, có thể kết luận lại rằng nguyên nhân của tình trạng hoạt động “tậm tịt” của hệ thống VNACCS/VCIS chủ yếu là do những lỗi chủ quan, và là trách nhiệm của người trong cuộc, có thể vì một lý do sâu xa nào đó, chứ không thể đổ tại cho những lý do khách quan, chung chung như sự khác biệt giữa 2 quốc gia, 2 chế độ. Điều đáng nói là nạn nhân của tình trạng này – những doanh nghiệp xuất nhập khẩu – xem ra tiếp tục sẽ phải chịu trận dài dài nếu như  nếu những “sự khác biệt” này sẽ còn tiếp tục được viện dẫn để lẩn tránh trách nhiệm, hoặc, tệ hơn, để trục lợi.

4 comments:

  1. Mọi người có lẽ đều đồng ý với các phân tích của bác ở phần trên. Nhân tiện đây em nhờ bác phân tích phát biểu của ông bô trưởng bộ KH-ĐT Bùi Quang Vinh về FDI, em thấy có vẻ không ổn lắm!
    http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/doanh-nghiep/bo-truong-bui-quang-vinh-khong-qua-lo-chuye-n-fdi-giam-3098623.html

    Thanks bác nhiều!

    ReplyDelete
    Replies
    1. Bài này phỏng vấn chán, theo kiểu có gì hỏi nấy, chả ăn nhập gì với nhau, phóng viên tung ra một câu hỏi chỉ để mà hỏi, rồi thôi, không đào sâu, hỏi vặn vẹo lại, cứ như là không lĩnh hội được ý của đồng chí Vinh.

      Mà tiện đây tớ thấy đồng chí Vinh là một trong số ít những khuôn mặt quan chức ở VN tớ thấy có cảm tình.

      Về chuyện hấp thu FDI thì tớ thấy đồng chí Vinh trả lời hợp lý.

      Về chuyện kế hoạch đầu tư trung, dài hạn để chấm dứt chuyện xin cho, đồng chí Vinh nói không thuyết phục vì việc chính phủ công bố kế hoạch giao vốn cho các địa phương cho dù có thể chấm dứt chuyện chạy chọt, xin cho sau này, nhưng ai cấm họ chạy chọt, xin cho, lobby trước khi chính phủ chốt kế hoạch giao vốn 5 năm? Đã là giao, cấp thì kiểu gì cũng có xin và chạy chọt.

      Đại loại là vậy. Đồng chí thấy chỗ nào không ổn nữa không thì bảo tớ để tớ bình luận luôn thể?

      Delete
  2. Tớ buộc phải xóa một số comment mà thực chất là quảng cáo. Các đồng chí bạn đọc lưu ý là tớ cũng xóa comment đấy nhé!

    ReplyDelete
  3. Cảm ơn bác nhiều!

    ReplyDelete

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).