Thursday 17 December 2015

Dự trữ bắt buộc không nên tùy tiện (Bài đăng trên TBKTSG, 17/12/2015, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/139902/De-su-dung-tot-hon-cong-cu-du-tru-bat-buoc.html
 
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mới ban hành Thông tư 23/2015/TT-NHNN nhằm “sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế dự trữ bắt buộc đối với tổ chức tín dụng ban hành kèm Quyết định 581 ngày 9-6-2003 của Thống đốc NHNN”. Theo đó, NHNN xem xét điều chỉnh giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với một số ngân hàng. Cụ thể, đối với tổ chức tín dụng được kiểm soát đặc biệt, Thống đốc NHNN sẽ xem xét quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho đến mức tối thiểu 0%. Đối với tổ chức tín dụng đang thực hiện phương án cơ cấu lại đã được phê duyệt, tổ chức tín dụng tham gia cơ cấu lại ngân hàng yếu kém theo chỉ định, Thống đốc xem xét quyết định giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cụ thể cho từng tổ chức tín dụng.
Thoạt nhìn, thông tư này là hợp lý và cần thiết khi nó được đưa ra để góp phần hỗ trợ cho công cuộc tái cơ cấu, củng cố hệ thống ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, nếu được nhìn nhận ở một số khía cạnh khác thì có một số điều đáng nói.

Thứ nhất, việc hạ tỷ lệ tín dụng, cho dù chỉ là một số ngân hàng thuộc diện được “ưu tiên”, về bản chất chinh là nới lỏng chính sách tiền tệ, dẫn đến áp lực lên tỷ giá, vốn đang được NHNN dốc sức bảo vệ. Nếu NHNN không muốn quyết định này có tác dụng phụ là làm gia tăng áp lực lên tỷ giá thì NHNN sẽ phải thắt chặt tiền tệ ở đâu đó, hoặc ở mức tổng thể, thông qua hạn chế tốc độ tăng cung tiền (tổng phương tiện thanh toan, M2). Như vậy, điều này sẽ tạo thêm khó khăn cho các ngân hàng không thuộc diện ưu tiên theo thông tư này. Trong khi đó, nhờ có thông tư này, các ngân hàng được ưu tiên, gồm cả những ngân hàng thương mại lớn có vốn nhà nước, có thêm điều kiện để tăng lãi suất huy động để thu hút vốn tiền gửi từ cá nhân và tổ chức mà không nhất thiết phải tăng lãi suất cho vay để đảm bảo biên độ lợi nhuận vì họ đã giảm được chi phí dưới dạng dự trữ bắt buộc. Việc nâng lãi suất huy động của các ngân hàng này sẽ buộc các ngân hàng không được ưu tiên phải nâng lãi suất huy đông tương ứng nếu không muốn nguồn tiền gửi của minh bị chảy hết sang các ngân hàng được ưu tiên. Kết cục là một cuộc đua lãi suất mới sẽ hình thành, làm tăng lãi suất cho vay cho nền kinh tế, gia tăng thêm khó khăn cho doanh nghiệp và người kinh doanh.
Thứ hai, thông tư này rõ ràng được đưa ra là để tạo điều kiện cho các ngân hàng được ưu tiên có thêm lợi thế cạnh tranh so với các đối thủ, nhờ đó nhanh chóng gia tăng lợi nhuận nhằm bù đắp cho những tổn thất phát sinh trong quá trinh sát nhập, hợp nhất, mua lại và tái cơ cấu. Tuy nhiên, cái giá phải trả nếu thực hiện như thông tư này, ngoài chuyện tạo thêm khó khăn cho các ngân hàng không được ưu tiên như nói trên đây, và những rủi ro như nói tiếp sau đây, sẽ là tổn thất (một cách gián tiếp) cho ngân sách nhà nước, cho công quỹ ở dưới dạng hụt thu từ dự trữ bắt buộc của các tổ chức tín dụng được ưu tiên gửi tại NHNN. Nói cách khác, bản thân NHNN sẽ phải “nhường cơm sẻ áo” cho các ngân hàng được ưu tiên theo thông tư này. Và đây cũng sẽ là một bằng chứng làm suy yếu lập luận của giới chức rằng tái cơ cấu ngân hàng không cần phải dùng đến ngân sách, từ đó làm giảm tinh chính đáng của các biện pháp tái cơ cấu ngân hàng trong mắt công luận.

Thứ ba, theo thông tư này thì NHNN vô hình trung đã tạo ra những đối xử bất công với các ngân hàng khác trong hệ thống. Như vậy, ngoài việc đã công khai vi phạm các nguyên tắc cốt lõi trong đối xử tối huệ quốc, đối xử công bằng và không thiên vị mà Việt Nam phải thực hiện trong khuôn khổ WTO và các hiệp định tự do thương mại song phương và đa phương khác, NHNN có thể sẽ phải đối đầu với những khiếu kiện của các tổ chức tín dụng trong và ngoai nước khi TPP có hiệu lực trong tương lai gần. Khi đó, nếu thông tư này vẫn còn hiệu lực thì NHNN chắc chắn sẽ phải sửa đổi, hủy bỏ, hoặc sẽ phải vất vả giải trinh, biện hộ cho sự tồn tại của nó mà cũng chưa chắc đã thành công.
Cuối cùng, NHNN trong thông tư này sẽ tùy nghi đối xử với từng ngân hàng, theo cách thức không mấy minh bạch, tạo ra những khoảng tối, những vận động hành lang theo cơ chế xin cho giữa các tổ chức tín dụng với NHNN, và là kẽ hở cho những hành vi phạm pháp. Đây là điều đi ngược lại xu hướng cải cách và minh bạch hóa nền kinh tế mà Việt Nam đang (buộc phải) thực hiện.

Tóm lại, Thông tư 23 của NHNN có vấn đề về cả “lý” lẫn “tình”. Tuy nó được thiết kế để giúp các ngân hàng tái cơ cấu hoặc tham gia tái cơ cấu nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung lành mạnh hơn nhưng trên thực tế chắc chắn nó sẽ làm suy yếu các ngân hàng khác, và tạo ra những tổn thất và khó khăn cho doanh nghiệp, cho chính NHNN cũng như chính sách lãi suất và tỷ giá của NHNN. Bởi vậy tuy đã được ban hành nhưng có lẽ NHNN không nên vận dụng nó trong thực tế. và, thay vào đó, NHNN nên xem xét đến một vài giải pháp khác phù hợp hơn với hoàn cảnh hội nhập của Việt Nam.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).