Tuesday 23 April 2019

Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa: Giảm thuế thế nào, và rồi còn gì nữa? (Bài đăng trên TBKTSG, 23/4/2019, tiêu đề do báo đặt lại)

https://www.thesaigontimes.vn/td/287626/ho-tro-doanh-nghiep-nho-va-vua-giam-thue-the-nao-va-roi-con-gi-nua.html


Bộ Tài chính vừa công bố dự thảo tờ trình Chính phủ về việc xây dựng dự án Nghị quyết của Quốc hội về một số chính sách thuế thu nhập doanh nghiệp hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo đó, các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) được giảm thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) xuống còn 15-17% (từ mức 25% áp dụng trước 1/7/2013, và 20% từ 1/7/2013).

Theo Bộ Tài chính, một trong những mục tiêu, yêu cầu mà dự thảo nhắm đến là hỗ trợ và tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh chuyển đổi hoạt động sang mô hình doanh nghiệp; tiếp tục thúc đẩy DNNVV phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, phù hợp với xu hướng phát triển, phù hợp với các cam kết quốc tế cũng như thông lệ quốc tế, qua đó góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp và tăng việc làm cho người lao động.

Tuy nhiên, việc giảm thuế suất thuế TNDN cho DNNVV như trên trước hết xem ra là chưa hoàn toàn phù hợp với quy định của Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa. Theo điều 10 của luật này thì DNNVV “được áp dụng có thời hạn mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thuế suất thông thường áp dụng cho doanh nghiệp theo quy định của pháp luật về thuế thu nhập doanh nghiệp” (tác giả nhấn mạnh). Như vậy, dường như dự thảo đã có thiếu sót khi không có quy định cụ thể thêm về thời hạn mà DNNVV được áp dụng thuế suất thuế TNDN ưu đãi 15-17%. Điều này không chỉ là trái với tinh thần của Luật Hỗ trợ DNNVV mà còn sẽ tạo ra thất thoát thu ngân sách đáng kể do DNNVV được ưu đãi quá mức.

Tiếp đó, về cơ sở việc đề xuất thuế suất TNDN 15-17%, Bộ Tài chính nêu kinh nghiệm cụ thể ở sáu nước gồm Brazil, Hà Lan, Hàn Quốc, Malaysia, Thái Lan, Trung Quốc. Đáng chú ý là trong số sáu nước này, chỉ có duy nhất Trung Quốc là áp dụng thuế suất thuế TNDN ưu đãi đồng mức cho mọi DNNVV (20%, so với thuế suất phổ thông 25%), trừ một số giai đoạn ngắn trong khoảng thời gian từ 2015 đến 2017 có áp dụng thuế suất thuế TNDN khác nhau tùy theo mức thu nhập chịu thuế TNDN (nhỏ hơn 200.000 NDT và từ 200.000 đến 300.000 NDT).

Năm nước còn lại hoặc là không có ưu đãi cho DNNVV mà chỉ có biểu thuế TNDN lũy tiến theo mức thu nhập chịu thuế (Brazil, Hà Lan, và Hàn Quốc), hoặc có thuế suất thuế TNDN lũy tiến áp dụng riêng cho doanh nghiệp có vốn góp nhỏ hơn mức cụ thể nào đó (thay vì thuế suất phổ thông 24%, Malaysia áp dụng thuế suất 19% cho 500.000 ringgit thu nhập chịu thuế đầu tiên đối với doanh nghiệp thường trú có vốn góp từ 2,5 triệu ringgit trở xuống; trên mức này thì chịu thuế suất phổ thông 24%), hoặc nếu có ưu đãi cho DNNVV thì chỉ được áp dụng trong một số giai đoạn ngắn (Thái Lan có một mức thuế TNDN 20% nhưng DNNVV được miễn hoặc giảm thuế TNDN từng năm trong giai đoạn 2016-2017).

Như vậy, điều có thể rút ra từ kinh nghiệm của sáu nước trên là, nhìn chung, trên thế giới việc áp dụng thuế suất ưu đãi đồng mức cho DNNVV chỉ là hãn hữu. Việc giảm, miễn thuế cho DNNVV, nếu có, thì chỉ diễn ra trong một thời gian tương đối ngắn (thường là một năm) như là một giải pháp chính sách lâm thời. Và thay vì áp dụng đồng mức thuế suất ưu đãi cho DNNVV, xu hướng chung thường là áp dụng thuế suất lũy tiến theo mức thu nhập chịu thuế.     

Do đó, việc Bộ Tài chính dùng kinh nghiệm của sáu nước nói trên để làm cơ sở cho việc đề xuất áp dụng thuế suất thuế TNDN ưu đãi đồng mức 15-17% cho DNNVV ở Việt Nam là không mấy thuyết phục.  Thay cho mức thuế suất đồng mức này, có lẽ Bộ Tài chính nên đề xuất thuế suất lũy tiến theo mức thu nhập chịu thuế/doanh thu của DNNVV thì xác đáng và thuyết phục hơn. Và đương nhiên là theo hướng này thì khả năng thất thu ngân sách cũng sẽ giảm thiểu đi do chỉ thực sự những doanh nghiệp có thu nhập chịu thuế thấp (và thường gắn liền với quy mô nhỏ và rất nhỏ - là đối tượng cần được hỗ trợ nhất) mới được hưởng ưu đãi thuế.

Việc đánh thuế lũy tiến theo mức thu nhập chịu thuế cũng nhất quán, đúng với giải trình của Bộ Tài chính rằng: “Từ thực tế đa số doanh nghiệp ở Việt Nam là doanh nghiệp nhỏ và vừa, trong đó các doanh nghiệp càng có quy mô nhỏ thì càng dễ bị tổn thương trước những biến động của nền kinh tế, môi trường kinh doanh, trước sự cạnh tranh khi hội nhập kinh tế quốc tế” (người viết nhấn mạnh). Nói cách khác, việc đánh thuế thu nhập doanh nghiệp cũng nên ít nhiều tương tự như việc đánh thuế thu nhập cá nhân, cần dựa trên nguyên tắc càng nhỏ (về quy mô, về thu nhập) thì càng có mức thuế thấp, và ngược lại, dù số lượng thuế suất có thể ít hơn.

Cuối cùng, với mục tiêu là hỗ trợ và tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh chuyển đổi hoạt động sang mô hình doanh nghiệp, Bộ Tài chính kỳ vọng việc ưu đãi thuế TNDN và miễn thuế TNDN (trong hai năm) sẽ tạo ra động lực mạnh mẽ trong khuyến khích nhiều hộ, cá nhân kinh doanh chuyển lên mô hình doanh nghiệp, hướng tới mục tiêu đạt một triệu doanh nghiệp vào năm 2020. 

Tuy vậy, cần lưu ý rằng, như đã nêu ở trên, việc miễn giảm thuế nhanh và mạnh cho DNNVV từ năm 2013, kết hợp với hàng loạt giải pháp “đồng bộ và quyết liệt” khác, dường như vẫn không có nhiều tác dụng trong việc theo đuổi mục tiêu này, mà bằng chứng sống động nhất là cho đến nay cả nước mới chỉ có hơn 600.000 doanh nghiệp đủ mọi thành phần và quy mô đang hoạt động, thấp xa so với mục tiêu một triệu doanh nghiệp vào năm sau, 2020.

Hơn nữa, việc chuyển đổi từ cá nhân, hộ kinh doanh lên doanh nghiệp phụ thuộc phần lớn vào lợi ích mang lại từ việc chuyển đổi này. Nếu lợi ích từ ưu đãi thuế, miễn thuế (trong hai năm) khi chuyển thành doanh nghiệp không bằng lợi ích khi giữ nguyên là cá nhân, hộ kinh doanh (để dễ trốn thuế, khai thấp thuế, ít bị nhũng nhiễu, ít phải “bôi trơn” cơ quan công quyền do phải “xin” đủ thứ nếu là doanh nghiệp...) thì sẽ không mấy ai muốn sự “nâng cấp” này. 

Do đó, điều mà Bộ Tài chính cần và nên làm trước khi đề xuất ưu đãi, miễn thuế TNDN là tiến hành một cuộc khảo sát, đánh giá thực tế và toàn diện về tác động của các giải pháp chính sách ưu đãi và hỗ trợ từ trước đến nay đối với DNNVV, từ đó có cơ sở để quyết định có tiếp tục ưu đãi nữa không và nên ưu đãi thế nào cho phù hợp nhất, nhằm vừa khuyến khích được DNNVV một cách có hiệu quả, vừa không làm tăng gánh nặng thâm hụt ngân sách.

Trong trường hợp giải pháp giảm, miễn thuế TNDN thực sự phát huy tác dụng thì vẫn cần coi đó chỉ là một trong những giải pháp và công cụ cần thiết để khuyến khích và hỗ trợ DNNVV. Nhưng do đã được nêu rõ trong Luật Hỗ trợ DNNVV, nên điều mà các cơ quan chức năng cần làm không phải là tìm thêm, đề xuất những giải pháp hỗ trợ mới.

Thay vào đó, việc trước mắt cần làm là khẩn trương ban hành ngay các văn bản luật cụ thể để hiện thực hóa các giải pháp hỗ trợ nêu trong Luật Hỗ trợ DNNVV. Lưu ý rằng việc này vẫn chưa được làm tốt, minh chứng là dù luật này được ban hành từ tháng 6/2017 nhưng cho đến nay giải pháp về thuế nói trong bài này mới chỉ được đưa ra xem xét dưới dạng dự thảo tờ trình Chính phủ và sẽ còn phải trải qua một quá trình dài nhiều tháng nữa trước khi được Quốc hội thông qua.

Và cũng như với mọi văn bản pháp luật khác ở Việt Nam, từ văn bản đến hiện thực là một khoảng cách lớn nên điều cần làm tiếp theo là tổ chức thực hiện nghiêm túc các giải pháp được luật hóa để hỗ trợ DNNVV, dù đây được nhình nhận trước sẽ là một quá trình chông gai. Điều này là có cơ sở vì chỉ cần nhìn vào, ví dụ, kết quả thực tế của quyết tâm của Chính phủ xóa bỏ rào cản, cải thiện môi trường kinh doanh cho doanh nghiệp diễn ra từ nhiều năm nay (mà, theo khảo sát mới nhất, có đến 58% doanh nghiệp trong nước vẫn còn bị nhũng nhiễu, 54% doanh nghiệp vẫn phải trả chi phí bôi trơn...).       

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).