Thursday 23 May 2019

Nhìn lại “cám dỗ” mang tên BOT (Bài đăng trên TBKTSG, 23/5/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/td/289091/nhin-lai-cam-do-mang-ten-bot.html

85-90% là đi vay
Theo một thống kê trước đây của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), tính đến cuối tháng 12-2016, có tổng cộng 20 ngân hàng cấp tín dụng cho các dự án BOT, BT giao thông với tổng hạn mức 163.097 tỉ đồng, tổng số dư tín dụng 84.235 tỉ đồng (chiếm hơn hai phần ba tín dụng cấp cho lĩnh vực giao thông). Tổng dư nợ này tăng lên 90.311 tỉ đồng vào cuối tháng 9-2017(1). Bốn ngân hàng cho vay BOT lớn nhất là BIDV, Vietcombank, VietinBank và SHB, chiếm 91% dư nợ, trong đó VietinBank và Vietcombank đang có tốc độ tăng trưởng tín dụng vào các dự án BOT, BT giao thông ở mức rất cao.
Trong khi đó, chủ đầu tư, theo báo cáo của Chính phủ, chỉ góp 10-15% vốn vào các dự án này. Đồng thời, cũng theo thống kê của NHNN, có 17 dự án bị chậm tiến độ với tổng số tiền cam kết cấp tín dụng là 18.260 tỉ đồng, dư nợ đến cuối tháng 12-2016 hơn 8.600 tỉ đồng. Nhiều dự án trong những năm đầu vận hành không có nguồn thu, không đủ trả lãi ngân hàng, khiến ngân hàng phải cơ cấu lại thời gian trả nợ.
Ngay cả với những dự án BOT, BT giao thông đã hoàn thiện, một số dự án đã bị cơ quan chức năng - đôi khi dưới áp lực quá lớn của dư luận - yêu cầu hạ mức thu phí sử dụng hay điều chỉnh hoặc thậm chí dỡ bỏ tuyến thu phí, dẫn đến phương án tài chính thu hồi vốn bị ảnh hưởng lớn, gây khó khăn cho việc trả nợ gốc và lãi vay cho các ngân hàng cấp vốn.
Nhận diện “cám dỗ”

Trước tiên, về tính hấp dẫn của các dự án loại này, đối với chủ đầu tư, có thể chỉ ra lý do chính làm chúng hấp dẫn là bản thân chủ đầu tư chỉ có ít vốn “mồi”, sẵn sàng đi vay phần lớn vốn cần thiết còn lại cho dự án. Vì chỉ có ít vốn bỏ ra, làm ăn theo kiểu “tay không bắt giặc” nên nhà đầu tư sẵn sàng mạo hiểm với dự án của mình, với tâm lý thua thì cũng không mất nhiều (và thực ra vào thời điểm đi vay trước đây, khả năng thua là điều không đáng bận tâm bởi những “lợi thế” của nhà đầu tư như nói thêm dưới đây).
Cũng vì “tay không bắt giặc” nên nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận vay ngân hàng với lãi suất cao hơn so với lãi suất mà ngân hàng có thể cho vay đối với các khách hàng doanh nghiệp thông thường khác, ít nhất là bởi chi phí tài chính đội lên sẽ được chủ đầu tư “phân bổ” đầy đủ cho người sử dụng cơ sở hạ tầng gánh chịu, tất nhiên là một cách hợp pháp với sự phê duyệt của cơ quan chức năng như trong phương án tài chính của dự án.
Lý do thứ hai, “nhạy cảm” hơn, là không thể phủ nhận nhiều nhà đầu tư vào các dự án cơ sở hạ tầng có mối quan hệ thân hữu nào đó, được ưu ái về chính sách, nhận được sự dễ dãi về phê duyệt dự án cũng như các điều kiện kinh doanh thuận lợi... Những lợi thế này không chỉ làm nhà đầu tư sẵn sàng chèo kéo ngân hàng bỏ vốn cho vay với lãi suất cao mà bản thân chúng còn làm cho ngân hàng “mờ mắt” trước tiềm năng thu lãi khủng của các dự án trong tương lai mà chuyện trả nợ vốn vay ngân hàng đầy đủ, đúng hạn chỉ là chuyện nhỏ khi cán bộ tín dụng thẩm định tính khả thi của dự án để trình quyết định cho vay.
Với ngân hàng, cho vay đâu cũng có rủi ro. Trước những lợi thế của chủ đầu tư, của dự án, yên lòng với sự “bảo kê” ngầm mà chủ đầu tư được hưởng, ngân hàng thường không cầm lòng từ chối những dự án cơ sở hạ tầng béo bở như vậy.
Những chuyện không “xuôi chèo mát mái” nói trên xảy ra với một số dự án cơ sở hạ tầng thực ra cũng nằm ngoài dự tính của tất cả các bên trong cuộc, bởi những lý do họ không thể kiểm soát được, như chuyện quan chức liên đới nào đó bị kỷ luật, dự án bị buộc phải điều chỉnh hoặc thậm chí hủy bỏ, việc điều hành dự án sau khánh thành bị thay đổi do pháp luật được “vá” những lỗ hổng dưới sức ép dư luận làm ảnh hưởng đến phương án tài chính đã duyệt...
Để cám dỗ không trở thành cạm bẫy
Để hóa giải các cám dỗ nói trên, để cám dỗ không trở thành cạm bẫy, thì về phía Nhà nước, cần minh bạch hóa quá trình mời thầu, xét duyệt và phê chuẩn dự án đầu tư, phương án tài chính. Đồng thời, quy định vốn tự có tối thiểu của nhà đầu tư để được phép thực hiện dự án cần phải được điều chỉnh theo hướng nâng lên, chẳng hạn 30% tổng vốn đầu tư.
Quan trọng không kém là các chính sách khai thác cơ sở hạ tầng do doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư, phát triển cần được minh bạch hơn, nhất quán hơn, dễ tiên định hơn, ít khả năng thay đổi đột ngột để có thể gây thiệt hại cho nhà đầu tư, gồm cả những nhà đầu tư chân chính trong những dự án cơ sở hạ tầng chân chính.
Về phía người cho vay là các ngân hàng thương mại (NHTM), NHNN cũng đã nhận ra vấn đề, nhận dạng rủi ro liên quan nên đã đôi lần ban hành văn bản nhắc nhở ngân hàng hạn chế cho vay đối với các dự án cơ sở hạ tầng. Đây là chốt chặn và là điều cần thiết để hãm bớt sự nhiệt tình thái quá của NHTM đổ vốn vào lĩnh vực này. Tiến thêm bước nữa, có lẽ NHNN nên ban hành quy định cụ thể hơn và khắt khe hơn để siết tín dụng cho các dự án cơ sở hạ tầng dạng BOT, BT như cách mà họ đang làm với các lĩnh vực khác như bất động sản, chứng khoán...
NHNN đã có thêm một động thái rất đáng hoanh nghênh là siết tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn cho vay trung, dài hạn. Điều này vô hình trung sẽ hạn chế phần nào ngân hàng rót vốn cho các dự án cơ sở hạ tầng bởi kỳ hạn tín dụng cho các dự án này thường là dài hạn, hàng chục năm. NHNN cần theo dõi chặt chẽ tình hình thực hiện quy định này để có biện pháp xử lý cần thiết với những ngân hàng vi phạm, nhất là do cấp vốn quá nhiều cho các dự án cơ sở hạ tầng.
Đối với từng NHTM, áp lực tìm kiếm dự án tốt để giải ngân thường xuyên là động lực để cán bộ tín dụng (và sếp của họ) dễ bỏ qua, xem nhẹ những rủi ro liên quan của dự án cơ sở hạ tầng. Đó là chưa kể cán bộ tín dụng còn “hợp sức” cùng nhà đầu tư tô hồng thêm cho dự án để nhanh chóng được phê chuẩn cho vay và giải ngân. Để hạn chế rủi ro, NHTM buộc phải xây dựng được bộ phận thẩm định tín dụng và kiểm toán nội bộ đủ năng lực, nghiêm minh, nhằm hạn chế cho vay thái quá các dự án cơ sở hạ tầng rủi ro và giảm thiểu thiệt hại khi rủi ro thành sự thật.
Các bộ phận chức năng trên cùng với bộ phận tuân thủ của ngân hàng cũng phải phối hợp chặt chẽ buộc bộ phận tín dụng và nguồn vốn tuân thủ đầy đủ các quy định về các hạn mức và tỷ lệ khống chế tín dụng của NHNN, góp phần bảo vệ chất lượng tín dụng của ngân hàng, giúp giảm thiểu rủi ro mất vốn.
Kinh nghiệm cho thấy đôi khi ngay cả những bộ phận chức năng trên của ngân hàng cũng cố tình làm sai có hệ thống hoặc có cá nhân làm sai, trục lợi. Nên để giảm thiểu được rủi ro này thì ngân hàng phải có thêm những biện pháp phòng chống như kiểm tra chéo, định kỳ luân chuyển cán bộ...
(1) https://vov.vn/kinh-te/ngan-hang-cho-cac-du-an-bot-vay-von-phai-chiu-rui-ro-the-nao-703574.vov

Friday 17 May 2019

Xoay xở chính sách trong vòng xoáy thương chiến Mỹ - Trung (Bài đăng trên TBKTSG, 18/5/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/288802/xoay-xo-chinh-sach-trong-vong-xoay-thuong-chien-my--trung-.html

Việc Tổng thống Mỹ Donald Trump bất ngờ tăng mạnh thuế lên hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc gần đây là chỉ dấu về một cuộc chiến tranh thương mại có khả năng sẽ kéo dài đầy bất trắc và kịch tính, gây ra tác động tiêu cực trên toàn cầu ở nhiều khía cạnh. Câu hỏi đặt ra là từ góc độ chính sách, Việt Nam cần phải làm gì để hóa giải tối đa trong khả năng có thể những tác động tiêu cực, đồng thời không làm ảnh hưởng đến những lợi ích tiềm năng mà cuộc chiến này có thể mang đến?

Phản ứng thường thấy trước tiên là nới lỏng tiền tệ
Về cơ bản, cuộc chiến thương mại có tầm vóc toàn cầu như đang xảy ra giữa Mỹ và Trung Quốc, nếu tiếp tục leo thang và kéo dài, sẽ gây ra những tác động tiêu cực gồm: (1) giảm tăng trưởng toàn cầu, theo đó là kim ngạch thương mại; (2) khủng hoảng trên các thị trường nợ, vốn, chứng khoán, và ngoại hối; (3) gián đoạn và thay đổi các dòng chảy thương mại, suy sụp và đổ vỡ các chuỗi cung ứng toàn cầu; (4) trừng phạt và trả đũa lẫn nhau giữa các đối tác thương mại thậm chí là đồng minh và ban đầu không có liên quan gì đến cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung, khoét sâu thêm và/hoặc làm nảy nở những mâu thuẫn và đối kháng trên các phương diện khác theo các chiều song phương và đa phương.
Như là một phần của gói giải pháp để đối phó với những tác động trên, phản ứng chính sách thông thường và tiêu chuẩn của các nước, nhất là các nước đang phát triển, trước hết thường là nới lỏng chính sách tiền tệ để kích thích nhu cầu nội địa nhằm bù đắp tổn thất tăng trưởng từ sụt giảm xuất khẩu do nhu cầu thị trường thế giới co hẹp lại. Nới lỏng tiền tệ cũng sẽ dẫn đến làm suy yếu nội tệ, góp phần duy trì năng lực cạnh tranh xuất khẩu trong khi hạn chế nhập khẩu. Nới lỏng tiền tệ làm giảm lãi suất nên sẽ hỗ trợ đầu tư, nắm giữ trái phiếu, chứng khoán và các giấy tờ có giá bằng nội tệ. Chính phủ cũng sẽ dễ dàng hơn khi huy động các loại vốn, quỹ để cứu trợ nền kinh tế và doanh nghiệp khi cần.
Do nới lỏng tiền tệ dẫn đến mất giá nội tệ nên thường cũng sẽ dẫn đến sự tháo chạy của các dòng vốn ngoại khi sự mất giá nội tệ là đáng kể trở lên. Để hạn chế khả năng này, các nước thường phải áp đặt và thắt chặt các biện pháp kiểm soát vốn (capital control) theo hướng “có vào mà không có ra”. Dù biện pháp này có tác dụng mang lại sự ổn định tức thời, ngắn hạn nhưng điều này sẽ làm nhụt chí nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng và do đó có hại cho tăng trưởng trong dài hạn hơn.
Với Việt Nam, ưu tiên chính sách sẽ phải là ổn định và ổn định
Với Việt Nam, chính sách nới lỏng tiền tệ tại thời điểm này là rất rủi ro. Lạm phát đang chịu áp lực gia tăng mạnh bởi những đợt điều chỉnh dồn dập giá điện, xăng dầu, nhiều loại phí, thuế nên nới lỏng tiền tệ sẽ làm tăng hơn nữa áp lực lạm phát. Nếu lựa chọn nới lỏng tiền tệ thì Chính phủ phải sẵn sàng chuẩn bị giải trình và thuyết phục dân chúng chấp nhận một tốc độ tăng trưởng “đẹp” đi kèm với sự leo thang của vật giá mà từ tầng lớp trung lưu trở xuống sẽ cảm nhận được rõ cái vị của “món trộn” này ra sao.
Ngược lại, sự “khôn khéo” trong điều hành chính sách thể hiện ở việc đóng băng giá cả hàng hóa và dịch vụ bằng các biện pháp hành chính nhằm chặn đà tăng lạm phát sẽ tỏ ra chỉ là sự chủ quan về chính sách, bởi giá cả sẽ bật tung khi không còn có thể bị kìm hãm được nữa, như minh họa về diễn tiến của giá xăng dầu vừa qua cho thấy.
Chiến thuật “linh hoạt” quen thuộc trong chính sách tiền tệ của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) sẽ chỉ có tác dụng nhất thời, theo tình huống, nhằm “bịt” chỗ nọ, “vá” chỗ kia mà không thể thoát được tình cảnh phải đối mặt với mối xung đột: nới lỏng nhiều thì rủi ro cao. Bởi nới lỏng ở thời điểm này, chỗ này, sẽ buộc phải thắt lại tại thời điểm khác, chỗ khác nhằm đạt được xu hướng ổn định trong trung và dài hạn.
Trong bối cảnh trên, đặc biệt là khi cuộc chiến thương mại trở nên gay gắt và khó lường hơn, với hậu quả cảm nhận rõ hơn, ưu tiên chính sách sẽ phải là ổn định và ổn định, làm bệ đỡ cho các lợi ích tiềm năng mang lại bởi cuộc chiến thương mại được hiện thực hóa, giúp bù đắp suy giảm tăng trưởng, nếu có.
Lạm phát thấp, ổn định trong tầm kiểm soát sẽ giúp cho các nhà đầu tư tiềm năng thấy rõ hơn bài toán chi phí, hiệu quả khi chuyển dịch cơ sở sản xuất từ Trung Quốc hay những nơi khác chịu ảnh hưởng của chiến tranh thương mại sang Việt Nam để tận dụng lợi thế về thuế quan áp lên hàng hóa xuất đi từ Việt Nam.
Lạm phát được kiểm soát cũng sẽ giúp cho một sự phá giá nhỏ của tiền đồng trở nên có ý nghĩa lớn hơn mà không gây ra những tác động tiêu cực đáng kể liên quan thường thấy khi có sự phá giá bản tệ lớn. Trên góc độ này, NHNN cần chủ động, sẵn sàng cho những bước điều chỉnh tỷ giá nhỏ mỗi khi sức nặng của rổ ngoại tệ tham chiếu làm cơ sở cho tỷ giá tiền đồng thay đổi đáng kể. Để vừa “linh hoạt” với tỷ giá, vừa giảm áp lực lên lạm phát từ sự suy yếu của tỷ giá tiền đồng, NHNN phải đóng tròn vai người mua bán ngoại tệ cuối cùng, một mặt sẵn sàng mua vào ngoại tệ với giá cao hơn nhằm làm yếu tiền đồng, mặt khác phải tăng cường hút tiền đồng về qua kênh thị trường mở và phát hành tín phiếu. Điều hành chính sách hiện tại của NHNN dường như thể hiện rõ định hướng chính sách này khi một mặt liên tục mua vào ngoại tệ, nâng giá mua ngoại tệ, đồng thời tăng cường trung hòa cung tiền đồng tăng lên thông qua phát hành tín phiếu, kiên quyết với mục tiêu tăng trưởng tín dụng chặt chẽ hơn đặt ra từ đầu năm.
Các giải pháp chính sách hỗ trợ khác có thể áp dụng gồm có phòng chống gian lận thương mại, minh bạch và đơn giản hóa chính sách đầu tư, thương mại, mở cửa và tự do hóa thị trường lao động có kỹ năng, thắt chặt và giám sát các tiêu chuẩn vệ sinh, môi trường... Các chính sách này có tác dụng biến Việt Nam nhanh chóng thành một cứ điểm sản xuất cung ứng mới đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng của nhà đầu tư, có hàm lượng giá trị gia tăng nội địa lớn để tránh được nguy cơ bị áp đặt các biện pháp trừng phạt gian lận thương mại (xuất xứ) của nước đối tác, đồng thời tránh được nguy cơ bị biến thành một cứ điểm sản xuất “bẩn”, ô nhiễm do phải đón nhận những công nghệ lạc hậu, thải loại (và do đó kém cạnh tranh, càng phải tìm cách “xuất” sang nước thứ ba) từ các nước nguồn đầu tư. 

Thursday 16 May 2019

Chiến tranh thương mại Mỹ-Trung: VND sẽ đi về đâu? (Bài đăng trên CafeF, 17/5/2019)

http://cafef.vn/chien-tranh-thuong-mai-my-trung-vnd-se-di-ve-dau-2019051708520589.chn

Việc Mỹ quyết định nâng thuế từ 10% lên 25% đánh lên 200 tỷ USD hàng xuất khẩu của Trung Quốc vào Mỹ tuần trước được Trung Quốc nhanh chóng trả đũa bằng việc tăng thuế áp lên 60 tỷ USD hàng xuất khẩu của Mỹ vào Trung Quốc từ 5% lên 25% (có hiệu lực từ 1/6/2019) đã làm rung động các thị trường hàng hóa, tài chính và ngoại hối trên thế giới. Xem ra sẽ còn nhiều bất trắc và biến động mạnh hơn nữa nếu Mỹ quyết định tăng thuế tương tự lên nốt 300 tỷ hàng hóa còn lại mà Trung Quốc xuất sang Mỹ để rồi chắc chắn sẽ nhận lại sự đáp trả thích đáng từ Trung Quốc.
VND cũng không phải là một ngoại lệ giữa vòng xoáy của cuộc chiến kiểu ăn miếng trả miếng giữa Mỹ và Trung Quốc như hiện tại. Tỷ giá VND/USD đã trồi sụt mạnh hơn tuần nay với biên độ chưa từng thấy trong nhiều tháng qua. Câu hỏi quan trọng là tỷ giá VND/USD sẽ ra sao trong thời gian tới nếu chiến tranh thương mại Mỹ-Trung tiếp tục leo lên những nấc thang mới khốc liệt hơn?
Xoay quanh nội dung này, chúng tôi đã có cuộc trao đổi với chuyên gia kinh tế tài chính - TS. Phan Minh Ngọc.
Chiến tranh thương mại Mỹ Trung chắc chắn sẽ tác động đến nhiều đồng tiền của các quốc gia trên thế giới, ông dự báo thế nào về đường đi của tỷ giá VND/USD?
TS. Phan Minh Ngọc: Câu trả lời chắc chắn sẽ không hoàn toàn rõ ràng, hay nói đúng hơn là sẽ không có một chiều hướng biến động rõ rệt của tỷ giá VND/USD theo hướng hoặc chỉ có tăng lên, hoặc chỉ có giảm đi, bởi sẽ có nhiều yếu tố tác động có tính triệt tiêu nhau trong từng thời điểm, dẫn đến sự biến động đáng kể, nếu có, của tỷ giá VND/USD sẽ theo cả 2 chiều trong ngắn hạn.
Trước hết, theo logic thông thường, trong chiến tranh thương mại, Trung Quốc – nước bị đánh thuế trước tiên và được cho là yếu thế hơn – sẽ có xu hướng phá giá Nhân dân tệ (CNY) hoặc "bỏ mặc" nó suy yếu so với USD mà không (muốn) can thiệp, coi đó như một biện pháp giảm nhẹ tác động của việc đánh thuế của Mỹ lên tính cạnh tranh của hàng hóa xuất khẩu từ Trung Quốc. Thực tế thì Trung Quốc cũng đã và đang làm điều này, với sự lao dốc của CNY từ mức 6,738 CNY/USD ngày 1/5 xuống còn 6,879 CNY/USD ngày 16/5 (-2,1%).
Nếu các yếu tố khác (gồm tỷ giá các đồng tiền tham chiếu khác) không thay đổi thì sự mất giá của CNY chắc chắn sẽ gây áp lực cả về mặt kỹ thuật lẫn tâm lý lên tỷ giá VND/USD. Quả thực là ngay sau khi Tổng thống Trump tuyên bố nâng thuế lên 25% với 200 tỷ USD hàng xuất khẩu từ Trung Quốc thì tỷ giá VND/USD đã theo gót CNY/USD mà tăng lên mạnh. Tuy nhiên, tỷ giá VND/USD sau đó đã có những bước thoái lui. Điều này có thể được giải thích bởi một thực tế khách quan là không phải là các đồng tiền tham chiếu (và có tác động mạnh đến tỷ giá VND/USD) nào cũng sụt giảm so với USD, mặc dù đúng là sẽ có nhiều nước muốn làm yếu bản tệ của mình để duy trì tính cạnh tranh.
4 trong số 8 đồng tiền tham chiếu để xác định tỷ giá VND/USD gồm CNY, SGD (đô la Singapore), KRW (đồng Won Hàn Quốc) và TWD (Đài tệ) đã suy yếu trong cùng kỳ so với USD. Thậm chí ngay cả USD cũng bị chiến tranh thương mại làm suy yếu đi so với nhiều đồng tiền chủ chốt khác trên thế giới, với chỉ số đô la suy giảm từ 97,69 điểm xuống còn 97,52 trong hơn nửa tháng qua.
Ngược lại, các đồng tiền còn lại trong rổ tham chiếu cho tỷ giá VND/USD gồm JPY (yên Nhật), Baht (bạt Thái Lan) và EUR lại mạnh lên so với USD. Ví dụ, JPY đã tăng 1,7% so với USD từ mức 111,424 ngày 1/5 lên 109,555 ngày 16/5. Chưa rõ tương quan trên thực tế về tác động của những biến động trái chiều của các đồng tiền này trong bài tính tỷ giá trung tâm của NHNN ra sao nhưng ít ra thì sự biến động trái chiều này và kèm với đó là sự triệt tiêu lẫn nhau của các tác động của chúng lên tỷ giá VND sẽ làm cho tỷ giá VND không thể diễn biến một chiều được.
Ngân hàng Nhà nước vẫn khẳng định sẽ điều hành linh hoạt và can thiệp khi cần thiết để ổn định thị trường ngoại hối, và thực tế cũng đã có những hành động nhất định, ông đánh giá thế nào về các động thái này của cơ quan quản lý?
Thời gian qua, động thái của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đóng một vai trò hết sức quan trọng. Một mặt, NHNN đã khá linh hoạt với tỷ giá VND/USD, ở khía cạnh là đã để cho tỷ giá tăng giảm cả 2 chiều thường xuyên, và tỏ rõ ý định (chấp nhận) để VND yếu đi trong một chừng mực nhất định trong năm so với USD như được thể hiện qua động thái nâng giá mua vào USD và thiết lập tỷ giá mua USD forward cao hơn tỷ giá spot mấy tháng trước đây, cũng như điều chỉnh tăng liên tục tỷ giá trung tâm mặc dù không có mấy áp lực điều chỉnh.
Mặt khác, không thể phủ nhận rằng dường như NHNN vẫn đang phải chịu một áp lực từ đâu đó hoặc tự nhận thấy rằng cần phải kiểm soát tỷ giá không để nó biến động quá nhanh, quá mạnh, nếu không sẽ có lúc biến động tỷ giá thoát khỏi tầm kiểm soát, dễ gây bất ổn vĩ mô. Mà để làm được việc này thì cần phải dập tắt càng sớm, càng mạnh càng tốt sự hình thành tâm lý đầu cơ, chỉ để cung cầu thực về ngoại tệ mới là yếu tố chính quyết định tỷ giá. 
Do đó, sẽ là dễ hiểu nếu NHNN chấp nhận để tỷ giá tăng lên (VND yếu đi) vài phiên để phù hợp với hoàn cảnh thị trường và sau đó sẽ chặn xu hướng này lại bằng việc can thiệp bán ra USD và/hoặc kết hợp với điều chỉnh tỷ giá trung tâm như đã được chứng kiến những ngày vừa qua (dù biện pháp này hiện rõ ràng chỉ có tác dụng tâm lý vì diễn biến của tỷ giá trung tâm vốn thường xuyên không "ăn nhập" gì với diễn biến tỷ giá liên ngân hàng và trên thị trường).
Với biến động của các đồng tiền trên thế giới cùng động thái điều hành của NHNN, ông dự báo tỷ giá ngắn hạn và dài hạn cụ thể ra sao?
Sự biến động trái chiều của 8 đồng tiền tham chiếu kết hợp với hành động linh hoạt của NHNN được hậu thuẫn bởi một nền tảng vững chắc hơn cho mọi sự can thiệp vào tỷ giá nếu cần của NHNN gồm quỹ dự trữ ngoại hối đã tăng mạnh từ đầu năm (hơn 8 tỷ USD) cho thấy dù chiến tranh thương mại Mỹ-Trung có leo thang hơn nữa trong 1, 2 tháng tới thì mọi biến động tăng hoặc giảm nếu có của tỷ giá VND/USD sẽ chỉ kéo dài một vài ngày rồi sẽ đảo chiều. 
Tuy nhiên, trong dài hạn hơn (tính đến, ví dụ, cuối năm nay) VND sẽ tiếp tục yếu đi ở mức độ vừa phải so với USD (một cách có chủ ý của NHNN).

Friday 10 May 2019

Làm sao ngăn chặn hành vi lừa đảo trong nội bộ ngân hàng? (Bài đăng trên TBKTSG, 10/5/2019)

https://www.thesaigontimes.vn/288639/lam-sao-ngan-chan-hanh-vi-lua-dao-trong-noi-bo-ngan-hang.html


Những năm vừa qua đã xảy ra nhiều vụ nhân viên ngân hàng lừa đảo dưới nhiều hình thức để chiếm đoạt tiền tỷ của khách hàng và ngân hàng. Các vụ lừa đảo này xảy ra ở nhiều ngân hàng, tư nhân có, có vốn nhà nước có, nên không thể không nghi ngờ rằng công tác kiểm soát rủi ro với nhân viên ở nhiều ngân hàng rất có vấn đề, dễ bị lợi dụng để lừa đảo gây tổn thất nặng về tài chính và uy tín cho ngân hàng. Do đó, các ngân hàng cần cấp thiết xây dựng và củng cố lại công tác phòng chống lừa đảo trong ngân hàng của mình.

Dưới đây là tóm tắt một số loại hình lừa đảo, gian lận chính và những dấu hiệu cảnh báo sớm dựa trên kinh nghiệm của các ngân hàng ở nước ngoài để các ngân hàng trong nước nhận biết sớm và có cách ứng phó kịp thời, hữu hiệu.

Gian lận tài khoản

Những kẻ lừa đảo trong ngân hàng biết rõ và lợi dụng tình trạng nhân viên khác trong ngân hàng thường chỉ biết về những tài khoản mà họ phụ trách trong công việc hàng ngày, chứ hiểu biết rất ít về những tài khoản khác ngoài phạm vi của họ. Một số kẻ lừa đảo còn có quyền tiếp cận hoàn toàn với các tài khoản chi trả hoặc phong tỏa các tài khoản dùng để tạm thời hạch toán các hạng mục như khoản vay đang xử lý, chuyển tiền giữa các bộ phận trong ngân hàng, hoặc tiền đang trong quá trình chuyển.

Những lợi thế này giúp cho kẻ lừa đảo dễ dàng chuyển tiền từ tài khoản nọ sang tài khoản kia. Ví dụ, một nhân viên có quyền tạo ra một tài khoản hạch toán các khoản phải trả cho khách hàng là một công ty nào đó thì hoàn toàn có thể tạo ra tài khoản cho một công ty giả mạo rồi chuyển tiền vào đó. Nếu hệ thống kiểm soát nội bộ ngân hàng yếu, không theo dõi và nghi ngờ các khoản tiền lưu chuyển giữa các tài khoản, hoặc nếu không có sự tách bạch chức năng, nhiệm vụ của nhân viên (ví dụ, để một người vừa phụ trách tài khoản phải trả, vừa phụ trách tài khoản của khách hàng) thì chắc chắn sớm hay muộn ngân hàng này sẽ bị nhân viên nào đó qua mặt để lừa đảo ngân hàng và/hoặc khách hàng.

Ngoài hai nguyên nhân trên, việc (để cho) nhân viên chia sẻ với nhau password để nhập vào hệ thống kế toán, kiểm soát cũng là một chính sách xấu phổ biến và dễ dàng trở thành nguồn gốc và cũng là dấu hiệu của hành vi gian lận. Bởi vậy, nhiều ngân hàng nước ngoài thường xuyên tuyên truyền, nhắc nhở nhân viên không được chia sẻ password của mình với bất cứ ai, kể cả sếp. Việc này được tiến hành dưới nhiều hình thức, gồm cả những câu đố tình huống trong các buổi tập huấn tuân thủ bắt buộc như bạn có nên lưu password của mình trong sổ tay hay không... Ngoài ra, định kỳ hàng tháng, nhân viên toàn ngân hàng bị bắt buộc phải thay đổi password truy cập email và các loại tài khoản liên quan.

Đánh cắp dữ liệu căn cước của khách hàng

Một kiểu gian lận, lừa đảo trong nội bộ ngân hàng cũng trở nên phổ biến là việc đánh cắp dữ liệu căn cước của khách hàng. Ví dụ, một số kẻ lừa đảo trong ngân hàng cấu kết với nhau sử dụng các chi tiết có trong thẻ căn cước của khách hàng để mở tài khoản ngân hàng và tài khoản thẻ tín dụng. Những kẻ này thuê người đóng vai khách hàng rút tiền vì chúng biết rõ ngân hàng không có đủ năng lực công nghệ và an ninh để ngăn ngừa thông tin khách hàng bị đánh cắp và cảnh báo cho ngân hàng biết khi thông tin khách hàng bị rò rỉ.

Để phòng ngừa gian lận loại này, ngân hàng cần tổ chức hệ thống kiểm soát nội bộ để theo dõi và phát hiện sớm các hành vi của nhân viên có quyền truy cập thông tin khách hàng như cập nhật vào tài khoản khách hàng sau giờ làm việc, thường xuyên hay truy cập quá nhiều vào các tài khoản của khách VIP, và truy cập vào tài khoản thường không thuộc phạm vi công việc của mình.

Chiếm đoạt tài khoản

Chiếm đoạt tài khoản cũng là một trong những hành vi gian lận phổ biến trong nội bộ ngân hàng và thường có sự thông đồng của những kẻ gian lận trong ngân hàng với người bên ngoài. Ví dụ, một nhân viên ngân hàng có thể mở một tài khoản tiền gửi cho khách hàng và sau đó thiết lập ngân hàng online (online banking) sử dụng tài khoản này mà khách hàng không biết. Nhân viên này sau đó sẽ tự rút tiền của khách hàng ra hoặc chuyển qua mạng cho một người bên ngoài. Hoặc nhân viên này sẽ bán mã PIN và số tài khoản của khách hàng cho một người khác, sau đó thay đổi địa chỉ đăng ký của chủ tài khoản và gửi yêu cầu cấp thẻ ngân hàng mới.

Với loại hành vi gian lận này, ngân hàng cần có công cụ và nhân lực để theo dõi những thay đổi bất thường hoặc thường xuyên của một tài khoản khách hàng nào đó. Những thay đổi này có thể gồm:  một nhân viên thay đổi tần suất gửi sao kê tài khoản sang những kỳ hạn dài hơn; một nhân viên không thuộc nhóm giao dịch với khách hàng lại thay đổi địa chỉ khách hàng; một nhân viên thay đổi các chi tiết về khách hàng sau đó lại thay đổi về như cũ trong một khoảng thời gian nhất định (chẳng hạn 1 tháng); một nhân viên tìm kiếm các tài khoản “ngủ đông” của khách hàng; và một nhân viên truy cập tài khoản “ngủ đông” của khách hàng và sau đó chuyển tiền từ tài khoản này.

Cấu kết với bên ngoài

Nếu những kẻ gian lận trong ngân hàng không chỉ cấu kết với nhau ở nhiều chi nhánh, bộ phận, vai trò, chức vụ, mà còn cấu kết với người bên ngoài để lừa đảo thì hậu quả thường là rất lớn. Ví dụ, chúng có thể cấu kết với người ở phòng nhân sự để dễ bề tuyển dụng người của mình vào những vị trí như nhân viên cho vay và nhân viên ngồi quầy tiếp khách, hoặc thậm chí là nhân viên kiểm soát. Hoặc nếu biết rằng phòng thu nợ có một quy trình rà soát nhân thân khách hàng yếu kém và có quyền tiếp cận với nhiều thông tin khách hàng thì những kẻ gian lận sẽ tìm cách cấu kết hay bố trí người vào phòng đó để lấy cắp thông tin khách hàng.

Một ví dụ khác về loại hình gian lận này là một nhân viên cho vay lập hồ sơ xin duyệt cho vay mua bất động sản của một khách hàng dưới tên giả và thông đồng với nhân viên thẩm định tín dụng là người sau đó sẽ thẩm định giá trị bất động sản “trên trời”. Nhân viên cho vay sau đó sẽ rút tiền và làm như là “khách hàng” đã rút và biến mất cùng với số tiền này, còn mình thì giả như vô tội, không biết gì.

Những bộ phận “nhạy cảm”

Ngoài ra, bên cạnh  việc theo dõi, phát hiện sớm các dấu hiệu cảnh báo gian lận, ngân hàng cũng cần đặc biệt chú ý đến những bộ phận và nhân viên có đặc quyền tiếp cận thông tin và tài khoản khách hàng bởi đây là những bộ phận và nhân viên có rủi ro cao về gian lận. Ví dụ, trung tâm trực đường dây nóng của ngân hàng thuộc loại này nên nếu thuê một bên thứ ba đảm nhận để cắt giảm chi phí thì sẽ rất dễ bị kẻ gian khai thác trục lợi. Hoặc nhân viên IT của ngân hàng cũng có thể đánh cắp dữ liệu căn cước của nhân viên khác nhằm mở tài khoản tại các ngân hàng khác.

Ứng phó

Trước hết, hạn chế sự truy cập dữ liệu khách hàng sẽ giúp ngân hàng hạn chế được không chỉ khả năng đánh cắp thông tin khách hàng mà còn khả năng chiếm đoạt tài khoản bởi kẻ gian. Sự theo dõi liên tục các hành vi của nhân viên và các hoạt động giao dịch sẽ giúp bộc lộ những dấu hiệu cảnh báo sớm gian lận nội bộ.

Hệ thống theo dõi, giám sát tốt nhất là hệ thống có khả năng phân tích, xác định các hành vi dẫn đến thất thoát, nhắm đến gian lận từ nguồn và cho phép ngân hàng ngăn chặn hành vi gian lận trước khi nó thực sự xảy ra. Theo cách này thì chiến lược theo dõi, giám sát tốt nhất là chiến lược ngăn chặn: Nhân viên biết rõ mình đang bị theo dõi, giám sát nên sẽ phải e ngại khi cố tình vi phạm nội quy ngân hàng.

Ngân hàng cũng cần có các giải pháp công nghệ thích hợp để có thể, ví du, tự động ngăn chặn giao dịch hoặc đưa ra cảnh báo để điều tra thêm. Hoặc khi một nhân viên tìm cách tiếp cận những thông tin không thuộc phạm vi công việc của mình, giải pháp công nghệ thích hợp sẽ nối kết hành vi này với những hoạt động cho vay hay nhận tiền gửi của nhân viên này.

Ngoài việc trợ giúp nhanh chóng xác định các hành vi nghi ngờ, giải pháp công nghệ còn ghi lại những hành vi của người dùng nội bộ - tức nhân viên trong toàn bộ ngân hàng để sau đó có thể đem ra xem xét lại để phục vụ điều tra.
Như vậy, giải pháp công nghệ thích hợp sẽ giúp giám sát nội bộ tốt hơn, ngân hàng phản ứng nhanh hơn với những rủi ro, gian lận, từ đó giảm thiệt hại về tài chính và uy tín cho ngân hàng. Đồng thời, ngân hàng qua việc ứng dụng các giải pháp công nghệ cũng tạo ra một tín hiệu cho nhân viên của mình biết rằng họ đang bị theo dõi, giám sát, nhờ thế mà làm giảm động cơ và nỗ lực gian lận của nhân viên.

Thursday 9 May 2019

Thêm góc nhìn về động thái hút tiền qua tín phiếu của Ngân hàng Nhà nước (Bài đăng trên CafeF, 9/5/2019, tiêu đề do báo đặt lại)

http://cafef.vn/ts-phan-minh-ngoc-hut-tien-bang-tin-phieu-cua-ngan-hang-nha-nuoc-la-hop-ly-20190509150041736.chn

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) từ đầu năm đến nay theo báo cáo đã mua vào trên 8 tỷ USD, đồng nghĩa là một lượng tiền đồng rất lớn đã được bơm ra nền kinh tế. Để tránh áp lực lên lạm phát, NHNN đã trung hòa lượng một phần lượng tiền đồng bơm ra này bằng phát hành tín phiếu của mình để các ngân hàng thương mại (NHTM) mua và nắm giữ. 

Do phát hành tín phiếu phải trả lãi nên có luồng quan điểm rằng đây là phí tổn mà NHNN, tức quốc gia, phải gánh chịu mà vẫn có thể tránh được bằng những công cụ tiền tệ khác không hoặc ít tốn kém hơn. 

Quan điểm trên là bất hợp lý ở một số khía cạnh. Trước tiên, hút tiền về bằng trái phiếu Chính phủ hay tín phiếu NHNN là một trong một số ít công cụ cơ bản của chính sách tiền tệ của bất cứ ngân hàng trung ương (NHTW) nào. Lo ngại về chi phí, phí tổn là vô nghĩa với NHTW (tức NHNN ở Việt Nam) bởi NHTW là nơi duy nhất có quyền và chức năng tạo tiền, đưa vào nền kinh tế. Phí tổn, nếu có, chỉ là chi phí in ấn, phát hành tiền mặt, chứ không phải là tiền lãi phải trả cho NHTM, bởi cần bao nhiêu để trung hòa thì in/tạo ra bấy nhiêu, với chi phí hầu như bằng 0. Trên hết, tiền lãi NHNN phải trả cho NHTM từ việc nắm giữ tín phiếu không phải, không liên quan gì đến ngân sách quốc gia nên không phải là một tổn thất cho ngân sách.

Mặt khác, NHNN phát hành tín phiếu để đổi lấy lượng VND phát sinh từ việc NHNN mua ngoại tệ từ các NHTM. Rõ ràng ở đây hoàn toàn không có sự thua thiệt, tốn kém nào cả mà chỉ là sự “đổi chác” đơn thuần về bản chat.

Cụ thể, về vế thứ nhất, mua vào ngoại tệ-bơm ra, giả sử, 10 đơn vị VND, cái NHNN “mất” là 10 đơn vị VND, nhưng bù lại, cái NHNN “được” là lượng ngoại tệ thu về tương ứng 10 đơn vị VND. Tức là NHNN không thiệt hại gì ở đây cả, thậm chí phải nói là có lợi vì thu được một lượng ngoại tệ mới mà chỉ phải in/tạo mới 10 đơn vị VND, trong trường hợp NHNN không có, không dùng VND có sẵn trong kho quỹ của mình. Lưu ý thêm là ở đây ta không bàn đến tác động của việc mua vào ngoại tệ của NHNN lên các biến số vĩ mô.

Ở vế thứ hai, phát hành tín phiếu cho NHTM-thu về VND do NHTM nắm giữ, để đơn giản, giả sử NHNN muốn trung hòa toàn bộ 10 đơn vị VND bơm ra để mua ngoại tệ bằng phát hành tín phiếu NHNN cho NHTM nắm giữ. Khi đó, cái mà NHNN phải bỏ ra là 10 đơn vị tín phiếu, còn cái mà NHNN thu lại được là 10 đơn vị VND. Như vậy, ở đây NHNN cũng không có thiệt hại gì, mà chỉ là một sự đổi ngang tài sản, mà đều là tài sản do NHNN tạo ra. 

Nếu coi việc NHNN phải trả lãi cho tín phiếu mà NHTM giữ cho đến khi đáo hạn là một phí tổn (lưu ý lại là phí tổn cho riêng NHNN) thì phí tổn này hoàn toàn được bù đắp bởi: (i) số ngoại tệ mua vào mới với chi phí tính bằng VND gần như bằng 0, do khả năng tạo tiền của NHNN. Hơn nữa, số ngoại tệ này về giá trị tính bằng VND lớn hơn nhiều lần số tiền lãi NHNN phải trả cho lượng tín phiếu mà NHTM nắm giữ; (ii) tiền lãi thu được từ việc đầu tư trong và ngoài nước số ngoại tệ mua vào mới này. Lưu ý là số ngoại tệ này trên danh nghĩa là bổ sung vào dự trữ ngoại hối quốc gia nhưng bản thân dự trữ ngoại hối  không bao giờ được để nằm yên một chỗ mà phần lớn được đem đầu tư ở đâu đó dưới nhiều kỳ hạn để sinh lãi; và (iii) tiền lãi thu được từ việc cho vay lại NHTM sau này từ số VND mà NHNN thu về bằng tín phiếu trước đó. 

Về việc sử dụng các công cụ điều tiết khác, NHNN cũng đã có giải thích rằng những năm vừa qua họ có sử dụng kênh tiền gửi Kho bạc được điều chuyển về NHNN để điều tiết nhưng kênh này không thể hút triệt để lượng tiền NHNN đưa ra để thu hút ngoại tệ. Thực ra, kênh điều tiết này tuy có phát huy tác dụng nhưng, trên lý thuyết, không phải là một công cụ tiêu chuẩn của chính sách tiền tệ của NHTW, mà chỉ là một giải pháp “đặc thù”, nhất thời ở Việt Nam. 

Còn với công cụ dự trữ bắt buộc, NHNN giải thích lý do không được sử dụng là do phải đảm bảo thanh khoản cũng như không phù hợp trong điều kiện cơ cấu lại các tổ chức tín dụng. Những lý do này là đúng nhưng xin được bổ sung thêm rằng sẽ là bất hợp lý, không thỏa đáng và công bằng đối với NHTM khi NHNN một tay tung ra tiền đồng để mua ngoại tệ từ NHTM, tay kia lại dùng dự trữ bắt buộc để buộc/ép NHTM nộp (một phần) số tiền đồng này về kho quỹ NHNN, với lãi suất của dự trữ bắt buộc thấp hơn nhiều lãi suất tín phiếu, gây thiệt hại cho NHTM. 

Ngoài ra, dù là chỉ phải trả lãi suất thấp hơn nhiều cho dự trữ bắt buộc nhưng về bản chất thì NHNN vẫn phải tốn phí tiền lãi tương tự như việc họ phải trả lãi cho tín phiếu của mình. Như vậy có nghĩa là dự trữ bắt buộc cũng không phải là kênh hút tiền về “miễn phí”, càng làm nổi bật tầm quan trọng và thích đáng của kênh phát hành tín phiếu NHNN để trung hòa tiền đồng sau khi mua ngoại tệ. 

Tóm lại, trung hòa bản tệ phát sinh từ việc mua ngoại tệ bằng tín phiếu là một công cụ chính sách tiền tệ chuẩn mực và có thể nói là hợp lý nhất đối với thế giới nói chung và Việt Nam nói riêng. Việc trung hòa này cũng không gây ra tổn thất (đáng kể) cho ngân sách và kể cả cho NHNN, ngoại trừ việc làm phình to quy mô bảng cân đối tài sản của NHNN mà tác động của nó không thuộc phạm vi bài viết này.

Wednesday 8 May 2019

Hãy áp dụng cùng giải pháp như với ngân hàng đối với các công ty tài chính để giảm nợ xấu cho vay tài chính tiêu dùng (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn Cuối tuần, 2/5/2019)

https://doanhnhanplus.vn/hay-ap-dung-cung-giai-phap-nhu-voi-ngan-hang-doi-voi-cac-cong-ty-tai-chinh-de-giam-no-xau-cho-vay-tai-chinh-tieu-dung-426074.html


Mới đây, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Đào Minh Tú đã đưa ra giải pháp xác đáng để sao cho vừa phát triển được tín dụng tiêu dùng ngân hàng nhằm chống tín dụng đen nhưng đồng thời vẫn bảo toàn vốn, giảm thiểu nợ xấu và bảo đảm an toàn hệ thống.

Cụ thể, một trong những giải pháp được đề cập đến để ngân hàng cho vay nhanh giúp người vay giải quyết được những nhu cầu bức thiết của cuộc sống nhưng vẫn phải bảo đảm được câu chuyện thu nợ, an toàn đồng vốn là phải có các tổ chức chính trị xã hội trên địa bàn, nhất là chính quyền địa phương, cơ sở hỗ trợ.

Vì thế, theo ông Tú “ngân hàng cần chủ động với chính quyền địa phương, chính quyền cơ sở, thôn, xã, phường, tổ dân phố, hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội nông dân, để được xác định đúng là người ở địa bàn, có nhu cầu khách quan, vì chỉ có những người hằng ngày sinh hoạt thì mới biết nhu cầu thật, chứ cán bộ ngân hàng không thể lúc nào cũng làm được việc đó. Đây là kinh nghiệm của Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH), chúng ta cần tiếp tục vận dụng cho tài chính tiêu dùng”.

Phó thống đốc chỉ ra thêm một kênh phát triển tín dụng nhỏ lẻ, hộ gia đình từ mô hình thành công của ngân hàng lưu động Agribank cho vay vốn sản xuất, cho vay hộ gia đình qua các tổ hội.

Cũng theo ông, ngoài vốn vay của Quỹ tín dụng nhân dân và hệ thống các công ty tài chính, giải pháp khác là NHCSXH cho vay tiêu dùng phục vụ đời sống theo lãi suất thỏa thuận, thay vì chỉ cho vay hộ nghèo, cận nghèo, học sinh, sinh viên… như trước đây.

Có thể nói, các giải pháp mà NHNN đưa ra là rất đồng bộ và hợp lý để hỗ trợ người có nhu cầu vay cấp thiết, giúp họ không phải tìm đến tín dụng đen, trong khi không làm nợ xấu tăng lên và an toàn hệ thống được đảm bảo.

Nếu liên hệ lại với dự thảo Thông tư 43 gần đây của NHNN, theo đó có hướng siết chặt lại điều kiện cho vay tiêu dùng của công ty tài chính, chúng ta sẽ thấy là những giải pháp phát triển tín dụng tiêu dùng mà NHNN đang chủ trương áp dụng với hệ thống ngân hàng hoàn toàn có thể áp dụng được với các công ty tài chính nhằm vừa hỗ trợ cho công ty tài chính mở rộng cho vay tiêu dùng, kể cả giải ngân trực tiếp bằng tiền mặt, góp phần chống tín dụng đen, vừa vẫn giúp giảm thiểu rủi ro cho công ty tài chính và toàn hệ thống.

Theo đó, thay vì áp dụng những giải pháp hạn chế cứng nhắc trong dự thảo Thông tư 43 như hạn chế việc giải ngân trực tiếp bằng tiền mặt 30% tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng và quy định công ty tài chính chỉ được giải ngân trực tiếp cho khách hàng đã và đang vay tại chính công ty tài chính đó, NHNN cần xem xét cho phép công ty tài chính được giải ngân trực tiếp bằng tiền mặt cho mọi khách hàng nào có sự xác định, xác nhận của chính quyền, các tổ, hội, đoàn thể địa phương về khách hàng, về nhu cầu vay vốn thật… như với cách mà ngân hàng thương mại và các tổ chức tài chính vi mô đang thực hiện nêu ở trên.

Và cũng như với phát triển tín dụng tiêu dùng của ngân hàng thương mại, lãi suất của công ty tài chính cần là lãi suất theo thỏa thuận, không bị áp trần, và được tính toán theo lịch sử tín dụng của khách hàng (khách hàng có nợ xấu vẫn có thể được xem xét cho vay mà không nhất thiết bị từ chối như dự thảo Thông tư 43 và với lãi suất cao hơn thông thường).

Tất nhiên, một khi đã có sự xác nhận của chính quyền và các tổ chức chính trị, xã hội, tổ hội ở địa phương thì khả năng khách hàng vay tiêu dùng trả nợ là cao hơn, rủi ro không trả nợ sẽ thấp đi tương ứng, nên lãi suất cho vay tiêu dùng của công ty tài chính vì thế tuy vẫn cao hơn lãi suất cho vay thương mại thông thường, nhưng cũng sẽ không trở nên quá cao đến mức đẩy người vay (chân thực) vào cảnh mất khả năng thanh toán.

Việc để mở lãi suất nói trên sẽ tạo điều kiện cho công ty tài chính tích cực mở rộng hoạt động cho vay của mình, tăng thêm lợi nhuận, bảo toàn được vốn đồng thời giúp Nhà nước đạt được mục tiêu chông gai là đẩy lùi tín dụng đen.

Đương nhiên, cũng như với ngân hàng thương mại, việc cho vay của công ty tài chính cho dù có đáp ứng được điều kiện có sự xác nhận của địa phương thì cũng vẫn cần có những chốt chặn ở tầm bao quát hơn để tránh khả năng phát triển nóng, quá mức, dễ gây tình trạng cạnh tranh không lành mạnh, và nguy hiểm hơn, sự đổ vỡ của hệ thống.

Đó chính là hạn mức tăng trưởng tín dụng tiêu dùng áp dụng với (từng) công ty tài chính, có điều chỉnh theo tình hình sức khỏe và chất lượng cho vay cũng như quản trị rủi ro của công ty tài chính đó.

Một chốt chặn an toàn khác nữa tương tự như trong hệ thống ngân hàng thương mại là giới hạn tỷ lệ cho vay trên tổng vốn chủ sở hữu, và/hoặc trên vốn huy động. Những chốt chặn như thế này sẽ giúp giảm thiểu rủi ro hệ thống.

Tóm lại, cách thức quản lý tín dụng tiêu dùng của công ty tài chính cần được tham khảo từ kinh nghiệm với hệ thống ngân hàng thương mại nhằm mục đích cuối cùng là hỗ trợ tăng trưởng kinh tế đồng thời giảm thiểu rủi ro hệ thống. Nếu vận dụng thành công thì chắc chắn tín dụng đen sẽ bị đẩy lùi một cách hữu hiệu.

Link nguồn : https://doanhnhanplus.vn/hay-ap-dung-cung-giai-phap-nhu-voi-ngan-hang-doi-voi-cac-cong-ty-tai-chinh-de-giam-no-xau-cho-vay-tai-chinh-tieu-dung-426074.html

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).