Sunday, 22 September 2013

Lạ lùng phát biểu của đồng chí TS Nguyễn Trí Hiếu

Trong bài phỏng vấn này, đồng chí Hiếu nói một số chỗ mà tớ thấy lạ lùng quá thể.

1. Đồng chí Hiếu nói: "NHNN đã nỗ lực và có thành công nhất định trên các lĩnh vực quản lý thị trường vàng, ổn định tỷ giá và điều hành lãi suất. Về lĩnh vực quản lý thị trường vàng, NHNN đã khẳng định thiết lập trật tự thị trường, sau đó ổn định giá. Trật tự trên thị trường vàng đã được thiết lập, không còn hiện tượng người dân đổ xô đi mua vàng mỗi lần xảy ra đoản cung, tạo ra những cơn sốt vàng gây xáo trộn thị trường; chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới đã được thu hẹp đáng kể; NHNN cũng thành công trong việc chống “vàng hóa”, cụ thể NHNN đã tách vai trò người huy động và cho vay vàng ra khỏi các ngân hàng thương mại (NHTM), bởi bản thân các NHTM cũng thua lỗ nặng nề, hiện tượng đầu cơ vàng đã giảm."

Tớ bình luận: Người dân không còn đổ xô mua vàng như mỗi lần xảy ra đoản cung trước đây. Nhưng ai gây ra đoản cung trước đây? Chẳng phải là NHNN không cấp phép cho các doanh nghiệp nhập khẩu vàng hay sao? Nay cho dù có không xảy ra đoản cung thì cũng chỉ có nghĩa rằng NHNN thay vì thình thoảng làm đoản cung như trước đây nay đã chịu khó duy trì và tăng cung vàng ra thị trường. Chuyện này cũng giống như sai lầm và đổi mới (tức sửa sai, nhưng có khả năng vẫn sai) ấy mà, thần thánh gì đâu.

Chênh lệch giá vàng trong nước và ngoài nước đâu có được thu hẹp đáng kể đâu nhỉ? Tất nhiên là so với mức chênh lệch kỷ lục 6-7 triệu đồng/lượng thì chênh lệch hiện nay là đã nhỏ đáng kể rồi. Nhưng, lại nhưng, cái mức chênh lệch 6-7 triệu này có từ lúc nào, ai và cái gì gây ra?

NHNN đâu có thành công trong việc chống vàng hóa, được hiểu là phải giảm lượng vàng đang đóng vai trò như VND trong nền kinh tế. Giảm gì mà bao nhiêu tấn vàng đã được NHNN tung thêm vào nền kinh tế, trong vòng có mấy tháng nay, và tung ra bao nhiêu thì cũng hầu như bán sạch bấy nhiêu?

Hiện tượng đầu cơ vàng, như tớ có lần đã nói, có thể và chỉ giảm khi NHNN duy trì việc bán vàng với giá tương đối ổn định hoặc xu hướng giảm đi, làm triệt tiêu động cơ đầu cơ (kỳ vọng giá vàng sẽ tăng trở lại). Nhưng khi NHNN dừng bán vàng và/hoặc giá vàng thế giới tăng trở lại thì... hãy đợi đấy!

2. Đồng chí Hiếu nói: "Qua việc tổ chức các phiên đấu thầu vàng, NHNN đã giải quyết sự mất cân đối cung - cầu vàng trên thị trường, nhờ đó giải tỏa cơn khát của thị trường, khoảng 40% lượng vàng đấu thầu đã đi vào trong dân chúng… Tôi nghĩ, về lâu dài, NHNN nên thành lập sàn vàng quốc gia để có sự liên thông với thế giới, thị trường vận hành thông suốt."

Tớ bình luận: Như đã nói ở trên, sự mất cung cầu vàng trên thị trường là do ai, cái gì tạo ra? Nay NHNN bán vàng để "giải tỏa" cơn khác thì cũng chỉ nên hiểu đó là hành động sửa sai mà thôi, có gì đâu mà ca ngợi?

3. Đồng chí Hiếu nói: "Tôi cho rằng, NHNN chưa thể dừng đấu thầu vàng dù chênh lệch giá vàng trong nước và thế giới đã giảm (còn trên 2 triệu đồng/lượng). Mặc dù nhu cầu về vàng đã giảm dần, nhất là sau khi các ngân hàng hoàn tất đóng trạng thái vàng, nhưng cầu vàng giảm chưa bền vững. Trong số gần 60 tấn vàng NHNN đấu thầu vàng miếng thì có gần một nửa số vàng được các TCTD mua để tất toán số dư huy động vàng, số còn lại đã được đưa ra thị trường. Điều này cho thấy, nhu cầu mua vàng của người dân là không nhỏ. Ước tính thị trường vẫn cần khoảng 50 tấn vàng nữa nên trong năm nay chắc chắn NHNN chưa thể dừng đấu thầu vàng, ngay cả khi mức chênh lệch giữa giá vàng trong nước và thế giới xuống thấp hơn 1 triệu đồng/lượng. Tôi dự đoán điều này sẽ không xảy ra trước khi hết quý I.2014.
Khi chênh lệch giá vàng nội - ngoại được thu hẹp ở mức trên và duy trì trong một thời gian nhất định (3 - 6 tháng) thì NHNN nên cân nhắc biện pháp đấu thầu vàng. Không loại trừ phương án mua vàng miếng. Tôi nghĩ, hoạt động đấu thầu vàng chỉ chấm dứt khi nhu cầu bình ổn không còn."

Tớ bình luận: Trong lý luận trên, cần phải hiểu rằng gần 30 tấn vàng các ngân hàng mua vào và tất toán cũng có thể (hoàn toàn) đã đi vào tay dân chúng nên không thể nói lượng vàng ước tính còn 50 tấn (cho dù bản thân con số 50 tấn này là một dấu hỏi, kể cả cứ cho rằng hơn 30 tấn vàng đã được đưa ra thị trường trong số 60 tấn vàng đấu thầu).

Theo lý luận của NHNN và đồng chí Hiếu thì sẽ/nên dừng đấu thầu khi nhu cầu bình ổn không còn. Nhưng nhu cầu vàng luôn biến động (theo hướng tăng, chí ít vì quy mô nền kinh tế và dân số có xu hướng tăng, trong ít nhất là ngắn và trung hạn), nên nếu NHNN không bình ổn nữa, tức không đấu thầu nữa, và vẫn không cho doanh nghiệp nhập khẩu vàng thì giá vàng mà không tăng thì là chuyện lạ. Vì thế, lúc đó NHNN lại buộc phải nối lại và duy trì đấu thầu vàng, cái thòng lọng do chính mình làm ra thòng vào cổ mình.

Tóm lại, về chuyện vàng và NHNN, nhìn đi nhìn lại thì chỉ thấy một sự bế tắc (chủ động), một cái chết được báo trước, nếu không có một cuộc đổi mới (aka sửa sai) khác!

4. Cái đoạn tiếp theo về tỷ giá, đồng chí Hiếu cũng sai lầm hệt như một loạt các đồng chí khác. Tớ nói mãi nên chán không phang nữa.

5. Đọc đến cuối, mới phát hiện ra bài này là của tờ Đại biểu Nhân dân, tờ báo một thời thân thiết của tớ. Càng hết (muốn) bình luận.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).