Friday 26 June 2015

Tham gia FTA: được, mất là chuyện thường tình (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 27/6/2015)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=352577

Việt Nam đang trong giai đoạn đàm phán Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Liên minh châu Âu và Hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương. Vì các FTA như thế này luôn có nội dung quan trọng là xóa bỏ thuế xuất nhập khẩu giữa các nước thành viên nên nhiều người đã tỏ rõ sự lo ngại về tác động tiêu cực của việc xóa bỏ thuế sẽ làm giảm thu ngân sách nhà nước (NSNN).

Luôn có người được kẻ mất

Mọi FTA không chỉ mang lại nhiều lợi ích mà cả nhiều thiệt hại cho từng cá nhân, từng nhóm người, từng ngành, từng cấu thành và từng lĩnh vực trong nền kinh tế. Điều này là bình thường, có thể dễ dàng dự đoán và chứng kiến ở mọi bối cảnh sau ký kết FTA. Điều quan trọng và đáng nói hơn là việc tham gia các FTA có đem lại lợi ích tổng thể cho nền kinh tế hay không, hay nói cách khác là có được nhiều lợi hơn hại hay không? Mà theo cả lý thuyết lẫn thực tế đã chứng minh thì các quốc gia đều có lợi khi cùng nhau gỡ bỏ mọi rào cản thương mại, tự do hóa dòng chảy hàng hóa và dịch vụ vào ra biên giới của các quốc gia. Cũng bởi những lợi ích trên lý thuyết và thực tế này, các FTA thi nhau ra đời giữa các nước hay các nhóm nước với nhau trên phạm vi toàn cầu.

Bởi vậy, nếu coi NSNN là một cấu thành cụ thể trong nền kinh tế thì chuyện NSNN sau ký kết FTA bị thiệt hại (nếu có) từ thất thu thuế xuất nhập khẩu cũng nên coi là điều bình thường, hoàn toàn xứng đáng đánh đổi lấy những lợi ích to lớn hơn cho cả nền kinh tế khi chúng ta ký kết FTA với các nước, nhóm nước đối tác. Và bởi là bình thường như vậy nên cần tránh cách đặt vấn đề kiểu như do NSNN bị thiệt hại nên Việt Nam cần phải thận trọng với các FTA, thậm chí là không nên tham gia các FTA nữa. Việc phân tích tác động tiêu cực của FTA lên NSNN lúc đó có chăng chỉ nên ở góc độ dự báo mức độ giảm thu và tìm ra những biện pháp khắc phục, giảm thiểu tác động tiêu cực này mà thôi.

NSNN không nhất thiết bị thất thu

Bất chấp việc xóa bỏ hàng rào thuế quan cho xuất nhập khẩu hàng hóa và dịch vụ ở Việt Nam theo cam kết trong khuôn khổ các FTA, thực ra NSNN không nhất thiết bị thất thu do đã bị mất đi nguồn thu trực tiếp từ thuế xuất nhập khẩu này.

Về xuất khẩu, khi hàng hóa của Việt Nam được xuất khẩu ra thị trường thế giới với thuế suất xuất khẩu 0% thay vì một mức dương nào đó như trước đây, Nhà nước trước mắt cũng bị thiệt hại do mất đi nguồn thu từ thuế xuất khẩu này. Nhưng bù lại, khi thuế suất bằng 0% thì hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trở nên cạnh tranh hơn về giá trên thị trường xuất khẩu quốc tế, giúp Việt Nam tiêu thụ được một khối lượng hàng hóa xuất khẩu lớn hơn so với khi chưa tham gia FTA. Đến lượt nó, xuất khẩu tăng lên sẽ kéo theo quy mô sản xuất cung ứng cho xuất khẩu trong nước cũng tăng lên, không những tạo thêm công ăn việc làm và thu nhập cho dân chúng mà còn làm tăng quy mô doanh thu và lợi nhuận của các nhà sản xuất nội địa. Nguồn thu vào ngân sách từ thuế thu nhập cá nhân và các loại thuế liên đới như môn bài, thu nhập doanh nghiệp… sẽ cũng vì thế mà gia tăng, hoàn toàn có khả năng thừa đủ bù đắp cho phần hụt thu từ việc xóa bỏ thuế xuất khẩu trong khuôn khổ FTA.

Về nhập khẩu, khi hàng hóa nước ngoài vào Việt Nam có thuế suất bằng 0% trong khuôn khổ FTA, đúng là Nhà nước sẽ trực tiếp bị mất đi phần thu nhập tương ứng nếu thuế suất vẫn ở mức như cũ trước đây. Nhưng việc bãi bỏ thuế nhập khẩu này cũng có tác dụng làm hạ mặt bằng giá cả hàng hóa trên thị trường nội địa, kích thích mua sắm và tiêu dùng của dân chúng. Đến lượt nó, chi tiêu tăng lên sẽ cải thiện nguồn thu vào NSNN từ các nguồn như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế giá trị gia tăng. Phần thu gia tăng thêm này thậm chí có khả năng còn lớn hơn cả phần thu trực tiếp bị mất đi khi Việt Nam phải xóa bỏ thuế nhập khẩu.

Cũng có người lo ngại rằng, khi hàng hóa nhập khẩu vào Việt Nam có thuế suất 0% thì sẽ bóp chết các doanh nghiệp nội địa và từ đó cũng có thể làm giảm nguồn thu vào NSNN. Điều này hoàn toàn có khả năng xảy ra, và chắc chắn sẽ có nhiều doanh nghiệp trong nhiều ngành, nhiều lĩnh vực sẽ phải ra đi dưới sức ép cạnh tranh của hàng nhập khẩu rẻ hơn, tốt hơn. Nhưng, cũng như đã phân tích ở trên, đánh đổi lấy sự ra đi của các doanh nghiệp nội địa sản xuất hàng thay thế nhập khẩu không có tính cạnh tranh này là sự lớn mạnh lên của các doanh nghiệp nội địa sản xuất hàng cho xuất khẩu và cả những doanh nghiệp nội địa sản xuất hàng thay thế nhập khẩu có tính cạnh tranh (hoặc thành công trong việc cải thiện, nâng cao sức cạnh tranh) và nhờ đó mà trụ lại được trên thị trường. Kết quả là nguồn thu NSNN vẫn được bảo đảm.

Với ý nghĩa trên, có thể hiểu FTA như là một cơ hội, một cú hích để tái cơ cấu lại nền kinh tế, làm nền kinh tế trở nên hiệu quả hơn với sự lớn mạnh hơn của những ngành, lĩnh vực và doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh cao hơn trên thị trường quốc tế, đồng thời với sự tàn lụi và diệt vong của những doanh nghiệp, ngành và lĩnh vực mà Việt Nam không có thế mạnh, không tạo được sức cạnh tranh, xưa nay vốn tồn tại được là nhờ sự bao bọc của Nhà nước. Đây là điều hết sức quan trọng và cần nghĩ trước tiên nếu còn băn khoăn về một cái hại nào đó của FTA, như chuyện giảm thu ngân sách nói trên.

Friday 19 June 2015

Liệu sắp có đợt bùng nổ bất động sản mới? (Bài đăng trên TBKTSG, 20/5/2015)

http://www.thesaigontimes.vn/131725/Lieu-sap-co-dot-bung-no-bat-dong-san-moi.html

Gần đây, thị trường bất động sản trong nước lại manh nha nóng trở lại với số người quan tâm vào đầu tư bất động sản đã nhiều hơn rõ rệt, phần vì các kênh đầu tư khác như vàng, gửi tiết kiệm và USD dường như đã phần nào mất tính hấp dẫn, trong khi nguồn kiều hối vẫn tiếp tục đổ vào mạnh. Bên cạnh đó, tin tức về nhiều dự án bất động sản lớn nhỏ đã được ký, từ những thương vụ mua sỉ một số căn hộ để cho chuyên gia nước ngoài ở, đến những vụ hợp tác giữa các công ty bất động sản trong nước với các quỹ đầu tư nước ngoài cam kết rót vốn hàng trăm triệu USD v.v... dường như càng tạo thêm động lực cho một bộ phận nhà đầu tư tiềm năng đón đầu một đợt sóng mới trong tương lai.
Trong bối cảnh này, không ít người lo ngại một bong bóng bất động sản mới sẽ sớm hình thành. Ngay cả Thủ tướng Chính phủ cũng khuyến cáo không để xảy ra tình trạng bong bóng bất động sản trong cuộc họp chính phủ mới đây. Vậy, có bao nhiêu khả năng xảy ra bong bóng bất động sản trong tương lai gần?
Điều đầu tiên phải kể đến khi phân tích triển vọng của một thị trường bất động sản là những yếu tố kinh tế vĩ mô hậu thuẫn cho thị trường bất động sản đó. Cụ thể hơn, một chính sách tiền tệ nới lỏng với tín dụng tăng trưởng mạnh luôn có khả năng châm ngòi cho sự bùng nổ trên thị trường bất động sản. Nhưng căn cứ vào lập trường chính sách của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) nói riêng và chính phủ nói chung thì khả năng để cho tiền tệ và tín dụng tăng trưởng bùng nổ như đợt sốt bất động sản trước đây là không có nhiều. Bài học về tăng trưởng tiền tệ và bất ổn kinh tế vĩ mô suốt mấy năm qua vẫn còn nóng hổi và đã được quán triệt khá triệt để trong các cấp lãnh đạo hiện nay. Bởi thế, trừ khi có sự thay đổi đột ngột lập trường chính sách của chính phủ, thị trường bất động sản đã và sẽ không được “tiếp máu” một cách quá đà từ kênh tín dụng chính thức như trước nữa.
Thứ hai, Luật Nhà ở sửa đổi sắp có hiệu lực vào tháng 7 tới cho phép cá nhân và tổ chức nước ngoài được mua nhà tại Việt Nam cùng với việc đảm bảo các quyền sở hữu tài sản cho nhóm đối tượng này. Ngoài ra, tăng trưởng kinh tế tiếp tục được cải thiện sẽ làm tăng thu nhập của một bộ phận lớn dân chúng. Đó là chưa kể giá bất động sản nói chung đã sụt giảm khá mạnh trong suốt mấy năm qua và đã trở nên hấp dẫn hơn, trong tầm với của nhiều người hơn. Đây là chính là một trong những yếu tố tích cực chủ yếu sẽ vực cầu bất động sản lên. 
Tuy vậy, để giá bất động sản gia tăng nóng do nhu cầu tăng mạnh thì cần thêm một điều kiện là nguồn cung bất động sản phải bị giới hạn, hoặc tăng không mạnh, không nhanh bằng tốc độ tăng cầu về bất động sản. Nhưng theo thống kê chính thức của Bộ Xây dựng thì nguồn bất động sản tồn kho còn rất lớn, mới chỉ có dấu hiệu giảm đi, chứ chưa giảm mạnh (chưa kể là bản thân thống kê về con số tồn kho này còn bị nhiều người trong cuộc coi là bất hợp lý). Trong khi đó, hàng loạt các dự án bất động sản mới và cũ đã hoặc là tiếp tục được tái khởi động sau thời gian ngủ đông, hoặc là được tung ra mới nhằm chớp thời cơ giá bất động sản đang có vẻ nóng lên. Cũng giống như trong nhiều thị trường hàng hóa cơ bản trên thế giới vốn đang chìm ngập trong dư cung, như dầu mỏ và quặng sắt, mọi sự phục hồi nhẹ của giá cả nhờ cầu được cải thiện đều nhanh chóng bị nhấn chìm trở lại bởi nguồn cung lập tức gia tăng mạnh mẽ hơn, tình hình thị trường bất động sản chắc cũng không khác nhiều. Và cũng giống như các thị trường hàng hóa cơ bản, sự phục hồi giá cả có chăng sẽ diễn ra ở trên một vài phân khúc nhỏ, ở một vài thời điểm, một vài nơi, giá bất động sản ở Việt Nam nếu có tăng thì cũng sẽ theo mô thức như vậy, chứ khó hy vọng giá cả sẽ tăng đồng loạt trên diện rộng và duy trì được lâu dài.
Thứ ba, không chỉ vặn chặt hơn van tín dụng ở tầm vĩ mô (giảm tốc độ tăng tổng cung tiền ra nền kinh tế so với trước đây), NHNN cũng đã có sự điều tiết vi mô lên nguồn tín dụng từ hệ thống ngân hàng thương mại đổ vào bất động sản theo hướng chặt chẽ và thận trọng hơn. Khả năng rót tín dụng cho lĩnh vực bất động sản của các ngân hàng thương mại không chỉ bị chặn trực tiếp bởi hạn mức tăng trưởng tín dụng do NHNN duyệt hàng năm cho từng ngân hàng thương mại, mà còn bị chặn một cách gián tiếp thông qua giới hạn tỷ lệ nợ xấu không quá 3% tổng dư nợ mà NHNN quy định áp dụng chung cho cả hệ thống ngân hàng. Do một tỷ trọng lớn nợ xấu có nguồn gốc từ cho vay hay đầu tư vào bất động sản nên bản thân các ngân hàng thương mại cũng không muốn, không dám mạnh tay cho vay lĩnh vực này, dù NHNN có thể không khống chế tỷ lệ dư nợ cho bất động sản. 
Thứ tư, xét về nguồn vốn ngoài tín dụng ngân hàng có thể đổ vào thị trường bất động sản như tiết kiệm trong dân cư, kiều hối hay nguồn vốn nước ngoài. Đành rằng tiềm năng huy động những nguồn vốn này còn rất lớn nhưng không thể phủ nhận rằng một phần lớn nguồn vốn này có động cơ đầu cơ, đầu tư sinh lời. Nhưng với tư cách là nhà đầu tư, đầu cơ, chủ sở hữu các nguồn vốn này thường lại chỉ muốn bỏ tiền khi nhìn thấy cơ hội sinh lời rõ ràng và chắc chắn. Và như đã phân tích ở trên, chắc chắn không ít nhà đầu tư, đầu cơ nhận thấy thị trường vẫn còn (có xu hướng) bị lấn át bởi nguồn cung quá lớn trong khi cầu có manh nha tăng nhưng chưa đủ mạnh để hấp thụ hết dư cung. Họ có thể nhìn thấy cơ hội ở một phân khúc nào đó có khả năng khởi sắc mạnh hơn nên nếu có đầu tư thì sẽ đầu tư mang tính chọn lọc, và sự chọn lọc này không thể diễn ra ở quy mô lớn được, như đã nói bên trên. Một phần lớn các nhà đầu tư còn lại sẽ chọn thái độ chờ xem, hy vọng giá cả sẽ tiếp tục yếu đi hoặc một thương vụ hời nào đó mới phát sinh.
Tóm lại, có thể khái quát thị trường bất động sản hiện nay ở Việt Nam là một thị trường đang dư cung lớn trong khi nguồn nuôi dưỡng chính là tín dụng từ hệ thống ngân hàng đã và đang bị xiết lại khá chặt, còn nguồn tài chính từ các tổ chức phi ngân hàng và cá nhân vẫn phần lớn chỉ là tiềm năng. Tuy nhiên, tình hình hiện tại của thị trường bất động sản trong tương lai sẽ thay đổi hoàn toàn nếu mai đây các nhà quản lý vì một lý do nào đó lại nới van tín dụng ở cả tầm vĩ mô và vi mô mạnh trở lại như mấy năm cuối của thập kỷ trước.

Saturday 13 June 2015

Cần tránh điệp khúc “không thể không xây”! (Bài đăng trên TBKTSG, 12/6/2015)

http://www.thesaigontimes.vn/131431/Can-tranh-diep-khuc-khong-the-khong-xay.html

Không ít lần công luận được nghe những tuyên bố kiểu như “không thể không xây!” của một số quan chức về những dự án cơ sở hạ tầng lớn của đất nước. Thông thường, những tuyên bố này được đưa ra như để buộc chấm dứt cuộc tranh luận giữa một bên là những người khởi xướng, đề xuất dự án - thường là các cơ quan hữu quan của Chính phủ, và một bên là những tổ chức và cá nhân phản biện, bao gồm giới chuyên gia độc lập.

Không hiếm khi những cuộc tranh luận này kéo dài hàng năm, mà phần yếu thế thường nghiêng về phía khởi xướng và vì thế mà buộc những quan chức đứng đầu liên đới phải ra một tuyên bố nửa như kết luận, nửa như mệnh lệnh bảo vệ tính cấp thiết của các dự án đó.

Để chuyện đúng sai ở nhiều khía cạnh của từng dự án trong các cuộc tranh luận sang một bên, điều ta có thể nói ngay được rằng thêm bất cứ một dự án hạ tầng cơ sở nào thì đều là tốt cho nền kinh tế dưới ý nghĩa là “không bổ chỗ nọ thì cũng bổ chỗ kia”.

Việc xây dựng các công trình này sẽ tạo ra công ăn việc làm, tạo nguồn thu thuế, kích hoạt các hoạt động kinh tế liên quan, cải thiện sự thông thương, đi lại, gia tăng sự năng động và cơ hội phát triển kinh tế vùng, ngành...

Một sân bay mới như Long Thành rõ ràng, dù ít hay nhiều, sẽ tăng thêm lựa chọn cho các hãng bay và người sử dụng. Tương tự như vậy, một đường tàu cao tốc Bắc Nam sẽ mang đến một lựa chọn mới cho người sử dụng, dù có thể chỉ là chủ yếu cho người có tiền, giảm tải giao thông, đặc biệt vào những mùa cao điểm... Bởi vậy, mọi dự án hạ tầng cơ sở đều có thể coi là cần thiết, có ý nghĩa, và vì thế đúng như với tuyên bố kiểu như trên.
 
Nhưng, với cùng một logic, trong xã hội sẽ còn nhiều việc “không thể không xây” khác, cần phải xem xét và quyết định cùng một lúc. Chỉ cần làm phép thử bằng cách để cho các địa phương tự do đề xuất các dự án phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, dân sinh... thì có lẽ chúng ta sẽ nhận được một danh sách dài dường như không có điểm kết các loại dự án mà cái nào đọc cũng đều thấy tính cấp thiết “không thể không xây” được!
 
Mọi việc sẽ không thành vấn đề cho dù có hàng loạt dự án cấp thiết kiểu này nếu như Việt Nam có nguồn tài chính dồi dào, Chính phủ không phải canh cánh nỗi lo nợ công và đang phải đau đầu nghĩ ra cách làm thế nào để đẩy mạnh chi tiêu để kích cầu.
 
Nhưng thực tế đáng tiếc là điều ngược lại. Vì thế, với một nguồn lực rất hữu hạn như ở Việt Nam hiện nay, cái sự “không thể không xây” của các dự án này, cứ giả thiết tiếp là các luận chứng kinh tế và kỹ thuật của chúng đều đúng hết, cũng cần phải theo một trình tự ưu tiên. Sẽ có cái “không thể không xây” cần làm ngay trước tiên và “cái không thể không xây” cần làm thứ hai...
 
Vận điều trên vào tình hình hiện tại, với những dự án cơ sở hạ tầng “không thể không xây” hiện nay, liệu các cơ quan hữu quan đã chứng minh được rằng chúng là những dự án phải làm ngay từ bây giờ, trước tất cả các dự án hiện tại và sẽ hình thành trong tương lai khác, ở trong các ngành và lĩnh vực khác không?
 

Cụ thể hơn, liệu họ có chứng minh được rằng việc xây, ví dụ, đường sắt cao tốc là quan trọng, cấp thiết và mang lại nhiều ý nghĩa kinh tế và xã hội hơn so với những dự án xây bệnh viện nhằm giảm quá tải, xóa bỏ cầu khỉ, cầu tạm, làm đường nông thôn và miền núi, hay thậm chí là so với việc cải tạo và nâng cấp chất lượng hoạt động và phục vụ của hệ thống đường sắt hiện thời?
 
Nếu không chứng minh được thì xin đừng tuyên bố “không thể không xây” theo cái nghĩa là các dự án này phải được thực thi ngay. Với những dự án đã được tuyên bố “không thể không xây” thì cần phải chấp nhận rằng chúng sẽ chỉ được xây dựng, nếu có, vào một thời điểm nào đó trong tương lai, khi có điều kiện (tức tài chính quốc gia dồi dào và không còn những dự án đáng ưu tiên hơn), chứ không phải hiện tại!

Tuesday 9 June 2015

Không thể gọi là “tiểu ngạch” (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 9/6/2015)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76&NewsId=351207


Trong ngày họp Quốc hội hôm qua, ĐB Mai Hữu Tín (Bình Dương) đã nêu chi tiết chênh lệch lớn về kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu do Tổng cục Thống kê Việt Nam công bố so với những con số tương ứng của Trung Quốc công bố trong mấy năm qua. Ông Tín kết luận rằng, đã có thể có sự xuất khẩu và nhập khẩu lậu lớn mà Tổng cục Thống kê và các cơ quan chức năng của Việt Nam không nắm được.

Điều trước tiên có thể nói về sự chênh lệch lớn trong thống kê thương mại của các cơ quan chức năng của 2 nước là khả năng Việt Nam đã bỏ sót, không thống kê đầy đủ thương mại tiểu ngạch trong khi phía Trung Quốc thì không. Ví dụ, trong việc xuất khẩu hoa quả tiểu ngạch sang Trung Quốc, trong khi Việt Nam có nhiều đầu mối xuất, không chỉ là các thương lái, công ty, mà còn cá nhân tự có hàng, hoặc được thuê chở (và thường được bỏ qua ở phía Việt Nam do giá trị nhỏ, hoặc dễ lẩn trốn)… thì dường như phía Trung Quốc chỉ có một số lượng đầu mối hữu hạn, ít hơn thế. Do đó, có thể với phía cơ quan chức năng của Trung Quốc, việc “túm tóc” một số ít người để thống kê và đánh thuế sẽ dễ hơn là việc tương tự ở phía Việt Nam. Tình hình nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc vào Việt Nam cũng tương tự như vậy, và vì thế số liệu thống kê thương mại của phía Trung Quốc có nhiều khả năng sẽ chính xác, đầy đủ và bao quát hơn.

Nếu đúng như trên thì sự chênh lệch sẽ giảm đi phần nào, và chuyện xuất khẩu, nhập khẩu lậu cũng không đến mức độ trầm trọng. Dẫu vậy, điều vẫn cần lo ngại ở đây là tình trạng trốn thuế, thất thu thuế từ con đường thương mại tiểu ngạch có thể lớn hơn nhiều so với hiện tại được biết. Nếu nhập khẩu từ Trung Quốc vào Việt Nam được thông qua nhiều đầu mối, thương lái ở phía Việt Nam trong khi các cơ quan chức năng Việt Nam chỉ có khả năng nắm được và đánh thuế một số trong đó thì quy mô nhập khẩu như thế khó còn được gọi là “tiểu ngạch” nữa, và Việt Nam cần thiết phải có giải pháp đưa hoạt động thương mại tiểu ngạch này vào vòng kiểm soát. Kiểm soát hữu hiệu thương mại tiểu ngạch không những tăng được nguồn thu thuế mà còn kiểm soát, hạn chế được những tác hại của việc để cho hàng hóa nhập khẩu chèn ép hàng nội địa, đồng thời hạn chế được việc chảy máu tài nguyên và tài sản của đất nước thông qua hành vi xuất khẩu gia tăng (vì trốn được thuế nên giá rẻ, hấp dẫn người mua ở Trung Quốc).

Nhưng nói gì thì nói, lo ngại của ông Tín về tình trạng xuất khẩu lậu, nhập khẩu lậu là xác đáng, vì “dù có trốn qua con đường tiểu ngạch như nói trên thì lượng hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu như vậy vẫn cần phải gọi đích danh là hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu lậu, và có tác động tiêu cực”. Để xảy ra tình trạng này rõ ràng là có phần lỗi của các cơ quan chức năng Việt Nam, trừ khi họ có lời giải thích thỏa đáng nào khác, hoặc chứng minh được rằng số liệu thống kê của phía Trung Quốc là không chính xác. Trong khi đó, thực tế những vụ buôn lậu, hành vi gian dối trong các thương vụ xuất khẩu, nhập khẩu mà các cơ quan chức năng Việt Nam phát giác dường như chỉ là bề nổi của tảng băng, đồng thời củng cố thêm cho lập luận của ông Tín.  

Trao đổi xung quanh bài "Xuất khẩu nông sản giảm không chỉ vì tỷ giá" (Bài tí nữa thì được đăng trên TBKTSG)

Bài này tớ phang 2 đồng chí tác giả của bài viết trên ở TBKTSG
http://www.thesaigontimes.vn/131153/a.html


Vì lý do nào đó mà TBKTSG quyết định không dùng, nói rằng đã chuyển đến 2 tác giả này để rút kinh nghiệm.


Tớ định không cho lên đây, nhưng nghĩ là 2 đồng chí này thì có thể bỏ qua, nhưng cái luận điểm rằng để tăng xuất khẩu thì cần phải đa dạng hóa thị trường và sản phẩm v.v... thay vì phá giá là cái luận điểm sai lầm của rất nhiều người khác thì không thể bỏ qua, tha thứ được.
----------------------------------------------------------------------------


Trao đổi xung quanh bài "Xuất khẩu nông sản giảm không chỉ vì tỷ giá"


Bài viết trên của hai tác giả Trang Hạnh và Đinh Tuấn Minh ("các tác giả") trên TBKTSG số 7/6/2015 là một nỗ lực rất đáng ghi nhận vì đã phân tích và mổ xẻ vấn đề xuất khẩu dưới góc độ đa dạng hóa (thị trường và sản phẩm) và lợi thế so sánh được minh họa bằng những so sánh quốc tế với những số liệu cụ thể và thuyết phục. Có lẽ đây là một trong những phân tích đầu tiên ở dạng này cho Việt Nam, đã cung cấp được một bức tranh rõ nét hơn về khả năng cạnh tranh và tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian qua cũng như hàm ý cho thời gian tới.
Tuy nhiên, trong bài viết trên, các tác giả đã có sai lầm khi nối kết giữa những phát hiện từ phân tích của mình với thực tế suy giảm xuất khẩu của Việt Nam từ đầu năm 2015 đến nay.


Thứ nhất, sự nối kết này là không hợp lý khi các tác giả sử dụng số liệu trong quá khứ (từ năm 2005-2013) để giải thích cho một hiện tượng hiện tại - xuất khẩu sụt giảm như trong năm tháng đầu năm nay. Xu hướng trong quá khứ không nhất thiết sẽ tiếp tục diễn ra trong hiện tại và tương lai. Để có tính thuyết phục, các tác giả cần phải kéo dài chuỗi thời gian sử dụng trong phân tích của mình đến tận những tháng đầu năm nay và cho thấy được rằng đã có sự sụt giảm mạnh về lợi thế so sánh và mức độ đa dạng hóa trong mấy tháng đó. Tất nhiên, đây là điều khó vì khó có thể tìm kiếm được các số liệu cập nhật về thương mại của những nước được so sánh trong bài viết. Nhưng nếu vậy thì các tác giả cũng chỉ nên dừng lại ở nhận xét rằng quan sát của họ cho thấy xuất khẩu của Việt Nam là tương đối ít đa dạng và có lợi thế so sánh giảm dần trong thời gian trước đây, và chỉ thế thôi.
Thứ hai, nếu cứ theo hàm ý rút ra được từ phân tích của các tác giả thì lẽ ra xuất khẩu của Việt Nam phải sụt giảm (mạnh) trong năm 2014, nối tiếp chiều hướng trong cả giai đoạn nhiều năm trước đó. Nhưng thực tế cho thấy ngược lại. Điều này càng chứng tỏ không thể dùng chiều hướng quá khứ để giải thích cho sự việc xảy ra trong một giai đoạn (ngắn) nào đó trong tương lai.


Thứ ba, mặc dù không bàn đến ảnh hưởng của tỷ giá lên xuất khẩu trong bài, nhưng các tác giả cũng đã thận trọng một cách cần thiết khi không phủ nhận tỷ giá là một nguyên nhân (chính) làm suy giảm xuất khẩu, bên cạnh yếu tố đa dạng hóa và duy trì lợi thế so sánh như họ đã chứng minh. Tuy nhiên, các tác giả đã không bóc tách và lượng hóa được mức độ ảnh hưởng của các yếu tố/biến số có khả năng ảnh hưởng đến xuất khẩu của Việt Nam của các yếu tố này (và cả những yếu tố khác, ví dụ như cung cầu thế giới). Đương nhiên là việc lượng hóa tác động của những yếu tố này là khá phức tạp, vượt quá phạm vi một bài viết ngắn trên báo chí. Nhưng trong chừng mực như vậy thì các tác giả cũng không có đủ cơ sở để kết luận rằng điểm yếu về cơ cấu thị trường và duy trì lợi thế so sánh là một số trong những nguyên nhân gây ra ảnh hưởng đáng kể (tức có ý nghĩa về mặt thống kê) làm xuất khẩu sụt giảm như gần đây.
Thứ tư, và liên quan đến điểm trên, các tác giả đã khá lúng túng trong việc tìm ra nguyên nhân cho phát hiện của mình rằng lợi thế so sánh của thủy sản và lúa gạo của Việt Nam đang giảm dần. Một mặt, các tác giả cho rằng sự giảm dần lợi thế so sánh là do sự chuyển dịch cơ cấu ngành. Mặt khác, các tác giả lại gần như tự phủ định khả năng này với nhận định: "Điều này có nghĩa là sụt giảm lợi thế so sánh không hẳn hoàn toàn là do chuyển dịch cơ cấu kinh tế". Tuy tự mâu thuẫn và lúng túng như vậy nhưng các tác giả vẫn mạnh dạn kết luận và đề xuất rằng: "Định hướng quan trọng nhất trong thời gian tới đối với ngành nông nghiệp Việt Nam là cần xác định được những thị trường chiến lược và kết nối doanh nghiệp xuất khẩu với các thị trường này".


Cũng như đã nói ở trên, lẽ ra các tác giả phải tính toán và lượng hóa được mức độ ảnh hưởng của các biến số liên đới lên xuất khẩu để chứng tỏ rằng lợi thế so sánh (và sự đa dạng hóa thị trường) là những biến số có ảnh hưởng lớn nhất, đáng kể nhất (hầu như là duy nhất) làm sụt giảm xuất khẩu của Việt Nam, và vì thế cần phải thực hiện những việc như các tác giả đề xuất, chứ không phải là phá giá tiền đồng.
Bên cạnh đó, cũng cần phải lưu ý rằng khả năng duy trì lợi thế so sánh thực ra lại là một hàm số của các biến số giải thích, trong đó cả cả biến số tỷ giá. Vì thế, các tác giả lẽ ra cũng cần phải dành một phần phân tích của mình để đánh giá mối quan hệ nhân quả giữa tỷ giá và sự suy giảm lợi thế so sánh, để loại trừ được khả năng tỷ giá bất lợi đã làm suy giảm lợi thế so sánh và từ đó mới làm suy giảm xuất khẩu của Việt Nam. Đồng thời, cũng cần thấy rằng sự đa dạng hóa thị trường đôi khi cũng phụ thuộc vào ngày chính tỷ giá, bởi, ví dụ, khó mà tăng xuất khẩu được vào những thị trường mà ở đó đồng bản tệ đạ bị định giá thấp hơn so với tiền đồng. Do đó, nếu không phân tích và bóc tách sâu được như vậy thì các tác giả mới chỉ đề cập được đến hiện tượng mà chưa chạm đến bản chất của vấn đề.


Tóm lại, tuy đa dạng hóa thị trường và tim cách đẩy mạnh xuất khẩu những mặt hàng Việt Nam có lợi thế so sánh luôn là điều nên và cần làm, đúng theo cả lý thuyết và thực tế, không cần phải chứng minh, nhưng chúng không nhất thiết là nguyên nhân (chính) cho sự sụt giảm xuất khẩu trong một giai đoạn (tương đối ngắn) nào đó. Ngược lại, tìm cách thúc đẩy xuất khẩu mà không làm cho tiền đồng có tính cạnh tranh hơn thì hiệu quả của những nỗ lực thúc đẩy xuất khẩu này sẽ bị triệt tiêu một phần, thậm chí hoàn toàn.

Monday 8 June 2015

Ổn định kinh tế vĩ mô phải đúng cách (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 8/6/2015)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=76&NewsId=351137

Bức tranh kinh tế hơn 1 năm qua cho thấy một số điểm sáng nổi bật. Trong khi tăng trưởng tiếp tục được cải thiện thì lạm phát ở mức thấp kỷ lục trong nhiều năm, không chỉ nhờ giá dầu và hàng hóa thế giới giảm mạnh, mà còn nhờ chính sách tiền tệ khá thận trọng của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) với tốc độ bơm tiền ra nền kinh tế đã giảm mạnh so với các năm trước.
 
Như vậy, quan niệm như trước đây rằng cần phải “kích cầu” thông qua bơm tiền ồ ạt vào nền kinh tế thì mới bảo đảm được tốc độ tăng trưởng khả quan đã không còn chỗ đứng nữa. Chính phủ đã xác định một cách đúng đắn rằng cần phải tiếp tục ổn định kinh tế vĩ mô trong thời gian tới.
 
Tuy nhiên, để thực hiện chủ trương này cần tránh dùng đến các biện pháp phi thị trường. Thông thường, để đạt mục tiêu kiểm soát lạm phát Chính phủ thường trì hoãn hoặc dùng các biện pháp hành chính để “bắt” giá cả không được tăng. Nhưng điều này luôn chỉ có tác dụng nhất thời, và rốt cuộc hoặc Chính phủ phải tăng bao cấp dẫn đến tổn hại ngân sách hay làm méo mó thị trường và dẫn đến các hành vi trục lợi, hoặc phải buông tay để giá cả sau đó tăng bù trở lại, thậm chí mạnh mẽ hơn.
 
Tương tự như vậy, với quan niệm cứng nhắc rằng lạm phát có thể được kiềm chế thông qua cố định tỷ giá USD/VNĐ (để giảm thiểu tác động của cái gọi là “nhập khẩu lạm phát”), tỷ giá USD/VNĐ một lần nữa lại được NHNN tuyên bố sẽ được giữ ổn định trong suốt cả năm nay, bất chấp diễn biến bất lợi của bối cảnh quốc tế khi USD lên giá mạnh với hầu hết các đồng bản tệ của các nước khác. Sự ổn định/cố định tỷ giá USD/VNĐ thậm chí lại còn được coi là một chỉ biểu cho sự ổn định kinh tế vĩ mô.
 
Tác hại nhãn tiền của kiểu “ổn định” kinh tế vĩ mô như thế này là cán cân thương mại đã chuyển từ xuất siêu năm 2014 sang nhập siêu trong mấy tháng đầu năm nay, trong khi các doanh nghiệp nội địa chật vật giành giật thị trường với hàng nhập khẩu trở nên có giá rẻ hơn nhờ tỷ giá cứng nhắc. Nhập siêu đến một mức độ nào đó sẽ kích hoạt tâm  lý kỳ vọng NHNN phải phá giá VNĐ để tiết giảm nhập khẩu đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu, lập lại cán cân thương mại (đơn giản vì thâm hụt thương mại phải được trang trải bằng vốn đi vay từ bên ngoài, và vì thế không thể duy trì mãi được). Nếu cương quyết không phá giá thì NHNN buộc phải tung dự trữ ngoại hối ra để bình ổn tỷ giá. Điều đáng nói là dự trữ ngoại hối của Việt Nam tuy đã tăng mạnh về con số tuyệt đối nhưng lại đang ở mức rất thấp so với trung bình trong khu vực, nên khả năng can thiệp này cũng chỉ có giới hạn và mang yếu tố tâm lý, trấn an thị trường là nhiều hơn.
 
Khi tỷ giá bị “trói” thì lạm phát trước mắt có thể không bị thêm áp lực từ kênh tỷ giá làm gia tăng lên. Nhưng, như phân tích ở trên, khả năng có hạn trong việc kiềm chế tỷ giá của NHNN cho thấy sớm hay muộn thì tỷ giá sẽ phải bị thả lỏng nếu áp lực phá giá tiếp tục gia tăng. Mà lúc đã được thả lỏng rồi thì những hậu quả tiêu cực của sự mất giá VNĐ lên nền kinh tế thậm chí còn lớn hơn so với kịch bản chủ động điều chỉnh tỷ giá.
 
Bởi thế, trong bối cảnh hiện tại, để ổn định kinh tế vĩ mô thì thực ra lại cần phải điều chỉnh linh hoạt các biến số kinh tế vĩ mô theo diễn biến thị trường. Hiểu rõ như vậy thì cũng sẽ hiểu được tại sao trong chỉ đạo mới đây của Thủ tướng yêu cầu NHNN điều hành chính sách tiền tệ theo hướng ổn định tỷ giá và thị trường ngoại hối lại có thêm một ý “theo dõi sát thị trường”.

Friday 5 June 2015

Nhận thức đúng về xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 5/6/2015)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=350982

Hiện nay ở Việt Nam đang dấy lên một làn sóng xã hội hóa nguồn lực đầu tư vào cơ sở hạ tầng, từ sân bay, đường cao tốc, đến cảng biển và thậm chí cả các bệnh viện công.
 
Thực ra, chủ trương huy động các nguồn lực xã hội không phải là hiện tượng mới. Nó đã được đề xuất đưa vào thí điểm từ hàng chục năm trước với những dự án như cổ phần hóa Bệnh viện Từ Dũ hay đấu giá quyền khai thác cảng Cái Lân. Cụm từ “xã hội hóa” về thực chất có nghĩa là cho phép và kêu gọi các nhà đầu tư tư nhân trong và ngoài nước đầu tư xây mới hoặc khai thác các công trình hạ tầng một cách độc lập hoặc hợp tác với Nhà nước. Bởi vậy, có thể coi những chủ trương như cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN), thoái vốn DNNN vào các ngành không cốt lõi, nới hạn mức sở hữu nước ngoài (room), và hợp tác công tư... đều là những dạng thức xã hội hóa đầu tư.
 
Xã hội hóa đầu tư sẽ xóa bỏ thế độc quyền, độc tôn của DNNN trong nhiều lĩnh vực, đặt các DNNN vào thế phải cạnh tranh với các doanh nghiệp tư nhân hoặc phải thu hẹp quy mô, thậm chí là tự đào thải, qua đó nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của cơ sở hạ tầng. Xã hội hóa cũng mở đường, tạo thêm cơ hội cho khu vực kinh tế tư nhân phát triển, không chỉ mang đến những công trình hạ tầng cơ sở mới mà với nguồn lực hữu hạn của Nhà nước khó có thể tạo ra, mà còn tạo ra thêm công ăn việc làm, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
 
Ngoài ra, việc tư nhân hóa, bán các tài sản hạ tầng cơ sở thuộc sở hữu Nhà nước không chỉ mang lại một nguồn ngân quỹ mới, giảm thâm hụt ngân sách mà còn làm lợi cho ngân sách nhà nước khi góp phần giảm bớt tham nhũng và thất thoát từ chi tiêu mua sắm công và đầu tư vào dự án công. Xã hội hóa cũng sẽ làm giảm gánh nặng tài chính và trách nhiệm của Nhà nước, giúp nó tập trung vào nhiệm vụ cốt lõi của mình, ví dụ như bảo đảm an ninh quốc gia.
 
Tuy có ý nghĩa to lớn như vậy, nhưng chủ trương xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng đã bị bỏ lửng và trì hoãn khá lâu, trước khi được tái khởi động xem xét và đưa vào thí điểm trong một số lĩnh vực cụ thể như gần đây. Ngoài sự chống đối của một bộ phận quan chức liên đới vì lo sợ mất đặc quyền thì hạn chế trong nhận thức, quan niệm và tầm nhìn của nhiều quan chức khác cũng là một trong những nguyên nhân chính đã và đang làm cho quá trình xã hội hóa diễn ra một cách khá chật vật.
 
Quan niệm rằng Nhà nước vẫn phải nắm những lĩnh vực quan trọng và then chốt trong nền kinh tế, không thể để “rơi” vào tay tư nhân, đặc biệt là người nước ngoài, nhiều khi đã bị vô tình hay cố ý lạm dụng, nhận thức sai. Ví dụ, trong việc xã hội hóa giao thông vận tải đường sắt, Tổng công ty Đường sắt lại đề nghị được trực tiếp sở hữu và quản lý các đầu máy; các công ty vận tải đường sắt sau cổ phần hóa sẽ thuê sức kéo theo hợp đồng với Tổng công ty. Dù có vài lý do, nhưng xét cho cùng chỉ là để hợp lý hóa, cố níu kéo sự độc quyền trong ngành đường sắt qua việc nắm quyền chi phối đầu kéo để ràng buộc các công ty khai thác vận tải đường sắt tư nhân.
 
Rồi trong việc tư nhân hóa các sân bay, Bộ Giao thông - Vận tải vẫn chủ trương Nhà nước phải kiểm soát, quản lý bay để “bảo đảm an ninh, quốc phòng, an toàn hàng không”. Hẳn nhiên nếu một thế lực phi nhà nước nào đó nắm được quyền kiểm soát, quản lý bay, rất có thể họ sẽ tiến hành những hoạt động xâm phạm an ninh quốc gia và gây mất an toàn bay nên nỗi lo như thế này của Bộ Giao thông - Vận tải không phải không có lý. Bên cạnh đó, lý do “bảo đảm lợi ích xã hội”, tránh độc quyền tư nhân gây hại cho người sử dụng dịch vụ hạ tầng cơ sở cũng hay được trích dẫn để bảo vệ cho chủ trương không tư nhân hóa, nhượng quyền khai thác một công trình nào đó. 
 
Tuy nhiên, nhìn rộng ra thế giới, chắc cũng có những nỗi lo tương tự và không kém phần “nhạy cảm” so với Việt Nam, nhưng nhiều nước đã tiến hành tư nhân hóa hoàn toàn ngay cả lĩnh vực quản lý bay, chưa kể họ đã tư nhân hóa quyền sở hữu và khai thác nhiều sân bay ở hàng loạt thành phố lớn trên thế giới. Bên cạnh đó, hệ thống cảng biển cũng đã được tư nhân hóa ở nhiều nước trên thế giới, và họ dường như không bị trói tay bởi những khái niệm khá mơ hồ như “an ninh”, “an toàn”, và “lợi ích xã hội” như ở Việt Nam.
 
Với nhiều ví dụ thực tiễn về xã hội hóa, tư nhân hóa cơ sở hạ tầng trên thế giới như vậy thì các vấn đề liên quan đến “an ninh”, “an toàn” và “lợi ích xã hội” ở Việt Nam hoàn toàn có thể giải quyết được một cách hữu hiệu, tránh được rủi ro là một bộ phận có quyền lực nào đó sẽ lợi dụng chiêu bài bảo đảm những cái này để đắc lợi, cản trở và trì hoãn thêm nữa chủ trương xã hội hóa. Cụ thể hơn, ngay trong lĩnh vực quản lý bay, dù được đặt trong tay một DNNN hay một công ty tư nhân thì những công ty này vẫn nên và phải được giám sát, quản lý bởi một cơ quan quản lý nhà nước chủ quản như Cảng vụ hàng không hoặc một tổ chức tương tự như vậy của Bộ Giao thông - Vận tải. Cơ quan chủ quản này mới chính là cơ quan thực hiện quản lý nhà nước về an ninh, an toàn bay trên lãnh thổ Việt Nam, thông qua việc ban hành các quy chế, luật lệ liên quan và thanh tra, giám sát, và buộc các doanh nghiệp quản lý bay thực thi nghiêm túc các quy định và luật lệ này.
 
Xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng là một chủ trương đúng đắn. Nhưng để thúc đẩy chủ trương này cần quyết tâm vượt lên nhiều rào cản khó tháo gỡ lâu nay.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).