Monday 29 October 2018

Làm gì để chống thất thu thuế? (Bài đăng trên TBKTSG, 30/10/2018, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/280627/lam-gi-de-chong-that-thu-thue-.html


Cục Thuế TP HCM mới đây cho biết tính đến ngày 31/8 nợ thuế trên địa bàn là 27.631 ngàn tỷ đồng, tăng tới 16,45% so với cuối năm 2017. Trong số này, nợ khó thu là 10.181 ngàn đồng, chiếm gần 40% tổng nợ thuế, tập trung và loại thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp...

Không rõ tốc độ tăng nợ thuế và tỷ lệ nợ thuế khó thu trong những năm trước ra sao, nhưng điều chắc chắn là tốc độ tăng tới 16,45% trong vòng có tám tháng là tốc độ cao một cách bất thường trong bối cảnh kinh tế vẫn đang tăng trưởng mạnh. Có lẽ, nếu có thì tốc độ tăng này chỉ thấp hơn con số tương tự trong những năm xảy ra khủng hoảng như 1997-1998 hay 2007-2008 khi tăng trưởng kinh tế lao dốc, hàng loạt doanh nghiệp đình đốn, phá sản.  

Ngoài sự bất thường, những con số vắn tắt trên còn gián tiếp cho thấy sự bất lực, không hiệu quả và cả những hành vi sai trái của (cán bộ) ngành thuế trong việc quản lý thuế, bất chấp đủ loại nỗ lực, quyết tâm với giải pháp mà ngành này đã và đang thực thi.

Không phải tìm đâu xa nguyên nhân gây ra nợ thuế lớn, ít nhất trên địa bàn TP HCM. Cũng theo Cục Thuế TP HCM,  những khoản nợ thuế lớn hầu hết là của những doanh nghiệp bất động sản, mà chỉ riêng năm doanh nghiệp được liệt kê “làm ví dụ” cũng đã có tổng số nợ thuế lên đến 1.262 tỷ đồng (1).

Như vậy, việc để những kẻ “có tóc” – những doanh nghiệp bất động sản – nợ (đọng) thuế vừa cho thấy rõ đâu là nguyên nhân chính đằng sau những con số nợ thuế bất thường, vừa cho thấy một điều khó có thể chấp nhận được là ngành thuế dường như đang chấp nhận sống chung với chuyện nợ thuế, không dám hay không xử lý được các doanh nghiệp nợ thuế vì lý do nào đó. Với đủ loại chế tài, quyền lực và công cụ thực thi pháp luật có trong tay tương tự như mọi cơ quan thuế trên thế giới, Cục Thuế TP HCM nói riêng, ngành thuế Việt Nam nói chung lẽ ra đã không được/nên để tình trạng nợ thuế tràn lan ở quy mô lớn này xảy ra. Và khi đã xảy ra rồi thì cứ nguyên nhân này mà quy trách nhiệm cho ngành thuế và người đứng đầu ngành.

Còn trong ngành hải quan của thành phố, thất thu thuế được đại diện ngành này cho là do tình hình buôn lậu, gian lận thương mại diễn biến phức tạp, chẳng hạn những gian lận thương mại lợi dụng chính sách thông quan thông thoáng (thông quan theo luồng xanh, vàng, đỏ…), gian lận trong kê khai trên hệ thống VNACCS, gian lận trong xuất nhập khẩu hàng hóa thuộc danh mục cấm, hoặc gian lận trong khai báo thông tin sai về hàng hóa…

Nhưng chẳng phải vì chính những hành vi gian lận, buôn lậu trên mới cần sự tồn tại và phát triển không ngừng tiêu vào ngân sách nhà nước của ngành hải quan hay sao? Nên nhớ rằng mục đích cho ra đời những chính sách và hệ thống như thông quan thông thoáng và VNACCS không phải là để đánh đổi sự thông thoáng về thủ tục hải quan lấy tệ nạn và gian lận thương mại gia tăng, “diễn biến phức tạp”.

Và cũng nên lưu tâm rằng dù là luồng xanh, vàng hay đỏ thì cũng vẫn đều được giám sát bởi con người – cán bộ hải quan. Hơn nữa, việc phân luồng này cũng chẳng phải chỉ có ở Việt Nam mà còn được áp dụng ở nhiều nước khác. Điều khác biệt là không thấy nước người ta phàn nàn rằng vì phân luồng như vậy nên mới làm “phức tạp” tình hình gian lận!

Ngay với VNACCS, hệ thống này đã được phát triển từ năm 2014 bằng vốn ODA của Nhật dựa trên mô hình hệ thống thông quan điện tử hoạt động thành công ở Nhật với nhiều yếu tố đã được “Việt hóa” để phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Cán bộ điều hành thì được đào tạo đến nơi đến chốn trong và ngoài nước bởi chuyên gia nước ngoài… Nên không thể lấy sự ra đời và hoạt động của VNACCS như là một cái cớ để xảy ra các gian lận trên hệ thống này.

Tương tự như vậy là những gian lận liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa thuộc danh mục cấm hay thông tin về hàng hóa. Đã đặt ra những danh mục cấm, những biểu thuế khác nhau theo xuất xứ hay loại hàng hóa thì ngành hải quan phải có biện pháp kiểm tra, giám sát tương ứng để đề phòng, ngăn chặn những hành vi gian lận. Nếu đã để xảy ra rồi thì trách nhiệm trước tiên vẫn phải thuộc về cán bộ hải quan liên đới.

Chuyện cũng rất vô lý là ngành hải quan đổ lỗi cho việc kẹt xe làm thất thu thuế. Ví dụ được nêu ra là Cụm cảng Q.2, Q.9 bao gồm Cát Lái, các cảng ICD Phước Long, Phú Hữu... hoạt động hết công suất nhưng hạ tầng giao thông không thể đáp ứng được lượng xe container bốc dỡ hàng hóa (nên làm giảm thuế? – Người viết). Cái vô lý ở đây là nếu hạ tầng giao thông không thể đáp ứng được lượng xe container bốc dỡ hàng hóa thì làm sao mà những cảng này hoạt động hết công suất được? Nói cách khác, cảng đã hoạt động hết công suất thì có nghĩa là hạ tầng giao thông hiện tại là “đủ dùng” cho các cảng này. Vậy nếu có thất thu thuế, hay nói chính xác hơn, thu thuế trong năm nay không bằng các năm trước thì đó phải là bởi những lý do khác (chủ quan) chứ không phải là do tại hạ tầng.

Nói cho công bằng, không thể phủ nhận có những lý do ít nhiều mang tính khách quan không thuộc sự kiểm soát của ngành thuế và hải quan, gây ảnh hưởng xấu đến thu ngân sách. Chẳng hạn, một số (chi) cục thuế địa phương phàn nàn tình trạng “doanh nghiệp và nhà thầu không chịu trách nhiệm nên không chấp nhận trả nợ thuế”(?); việc phối hợp giữa Tổng cục Thuế với Tổng cục Cảnh sát “chưa đạt yêu cầu, chưa phối hợp tích cực để xử lý các hành vi trốn thuế, gian lận thuế”, theo đó cần “xem xét sửa đổi Bộ luật Hình sự, đưa nội dung nợ thuế, bỏ trốn vào quy định của luật”; và chưa có ủy nhiệm thu, thu thuế điện tử (với khu vực cá thể) (2). Nhìn chung, những lý do này trong chừng mực nào đó là sự thật nhưng suy cho cùng cũng đều có nguyên nhân chủ quan, tại con người, vẫn trong phạm vi và khả năng giải quyết của ngành thuế, nếu thực sự họ “quyết liệt” muốn làm (kể cả chuyện sửa luật nếu họ làm cho các cơ quan làm luật bị thuyết phục).

Một lý do hay được ngành thuế phàn nàn nữa là chuyện khó thu thuế dịch vụ cung cấp bởi các công ty đa quốc gia như  Facebook, Google, Amazon, Airbnb, Grab, Uber, Agoda hay Traveloka… vì một mình ngành thuế không làm được (3). Điều này có thể là đúng. Và có thể cũng đúng rằng “việc thu thuế các mô hình này không chỉ Việt Nam gặp khó mà rất nhiều quốc gia lúng túng”. Dù vậy, ngành thuế Việt Nam cần phải biết rằng có nhiều nước và khu vực đã tìm (ra) được cách đánh thuế lên những công ty đa quốc gia này mà Việt Nam có thể học hỏi được (4). Tất nhiên, việc áp dụng các phương cách của nước ngoài hoặc phối hợp song phương và đa phương với các nước để đánh thuế các công ty đa quốc gia có thể cần thiết phải sửa đổi một số luật tại Việt Nam, nhưng ngành thuế chính là nơi có trách nhiệm nghiên cứu, tham mưu và đề xuất những sửa đổi cần thiết này.

Tóm lại, dù chỉ có người trong cuộc là ngành thuế và hải quan mới biết rõ nguyên nhân thực sự của việc thất thu thuế là gì nhưng cứ căn cứ vào những trình bày với giải thích của họ với công luận là có thể kết luận rằng yếu tố chủ quan là nguyên nhân chính gây ra tình trạng nợ đọng, thất thu thuế. Các giải pháp vì thế cũng phải xoay quanh nguyên nhân này, và có thành công hay không là hoàn toàn do người đứng đầu của ngành thuế, hải quan.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).