Friday 29 May 2015

Không cần phải có lãi suất cơ bản (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 30/5/2015)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=350445

Tại Kỳ họp thứ Chín, QH sẽ thảo luận, cho ý kiến vào dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi). Một nội dung được quan tâm trong dự luật là: có cần quy định về lãi suất cơ bản để khống chế lãi suất cho vay trong quan hệ dân sự hay không?

Về lãi suất cơ bản do Ngân hàng Nhà nước (NHNN) công bố, hiện đang có 2 luồng ý kiến tương phản nhau. Luồng ý kiến thứ nhất ủng hộ việc NHNN quy định lãi suất cơ bản để làm cơ sở quy định trần lãi suất cho vay trong quan hệ vay mượn dân sự. Điểm thay đổi của dự thảo Bộ Luật Dân sự (sửa đổi) - sẽ được QH cho ý kiến tại Kỳ họp thứ Chín - so với Bộ luật Dân sự năm 2005 là trần lãi suất vay trong quan hệ dân sự được nâng từ mức 150% lên 200% lãi suất cơ bản.

Ngược lại, luồng ý kiến thứ hai cho rằng, việåc quy định lãi suất cơ bản là không cần thiết. Không chỉ vậy, lấy lãi suất cơ bản làm cơ sở để xác định trần lãi suất vay trong quan hệ dân sự là hoàn toàn không hợp lý. Về khái niệm, lãi suất cơ bản (base rate) theo thông lệ trên thế giới thường được hiểu là lãi suất chính thức (official bank rate) hay lãi suất ngân hàng trung ương (central bank base rate), do ngân hàng trung ương ban hành và thay đổi theo từng thời kỳ. Lãi suất cơ bản thông thường chính là lãi suất mà ngân hàng trung ương của một số quốc gia áp dụng để tính lãi suất cho các khoản vay ngắn hạn qua đêm của ngân hàng trung ương đến các ngân hàng thương mại và tổ chức tài chính trong quốc gia đó.

Ở Việt Nam, lãi suất cơ bản cũng được NHNN công bố, theo Luật Ngân hàng Nhà nước. Nhưng điều khác biệt giữa lãi suất cơ bản của Việt Nam với nhiều nước trên thế giới là lãi suất cơ bản của Việt Nam chỉ để làm cơ sở cho các tổ chức tín dụng ấn định lãi suất kinh doanh. Không thấy Luật Ngân hàng Nhà nước đề cập gì đến chức năng của lãi suất cơ bản như một lãi suất mà NHNN áp dụng với các khoản vay ngắn hạn của mình cho các tổ chức tài chính tín dụng như trong trường hợp của các ngân hàng trung ương trên thế giới. Ngoài ra, lãi suất cơ bản ở Việt Nam được xác định dựa trên cơ sở lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất nghiệp vụ thị trường mở của NHNN, lãi suất huy động đầu vào của tổ chức tín dụng và xu hướng biến động của cung cầu vốn.

Như vậy, có thể thấy khái niệm, bản chất và chức năng của lãi suất cơ bản ở Việt Nam hoàn toàn khác với thông lệ chung trên thế giới. Do đó, có thể nói không quá rằng lãi suất cơ bản ở Việt Nam chỉ để phục vụ cho mục đích duy nhất là giúp cho hệ thống tòa án xác định một hành động cho vay dân sự nào đó có hiệu lực hay không, hoặc nặng hơn, có thuộc phạm vi tội danh cho vay lãi nặng hay không khi lãi suất cho vay thực tế vượt quá lãi suất cơ bản ở một mức nào đó.

Nếu xét đến chức năng của lãi suất cơ bản là để xác định xem hợp đồng dân sự cho vay có hiệu lực hay không, có thể thấy, kể cả khi nâng trần lãi suất cho vay từ 150% lên 200% của lãi suất cơ bản như trong dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) thì mức trần này là quá thấp. Lưu ý rằng nhiều công ty tài chính đã và đang cho vay tín chấp với lãi suất thực tế lên tới dăm bẩy chục phần trăm/năm, gấp nhiều lần lãi suất cơ bản NHNN cũng như lãi suất cho vay doanh nghiệp trung bình hiện nay. Hơn nữa, luôn có một bộ phận dân chúng có nhu cầu đi vay kể cả với lãi suất cao ngất ngưởng vì họ không thể tiếp cận được nguồn cho vay chính thống từ hệ thống ngân hàng. Nếu sửa đổi theo hướng chỉ nâng mức trần lên 200% lãi suất cơ bản thì nó sẽ bóp méo thị trường, hạn chế nhu cầu chính đáng và cơ hội được vay của nhiều người. Và dù có bị quy định trói buộc như vậy thì cả bên cho vay lẫn bên đi vay vẫn sẽ tìm cách “lách” được luật này không mấy khó khăn. Trong trường hợp này, rõ ràng trần lãi suất tuy có thiện ý là bảo vệ quyền lợi người đi vay nhưng thực tế lại trở thành vật cản với họ. Lưu ý thêm rằng, người đi vay thực ra cũng đã được gián tiếp bảo vệ nhờ điều khoản về tội cho vay lãi nặng trong Bộ luật Hình sự (nói thêm dưới đây), theo đó người cho vay không thể tính lãi suất cắt cổ nếu không muốn phạm phải tội cho vay lãi nặng.

Về tội danh cho vay lãi nặng, theo Điều 163 của Bộ luật Hình sự, hành vi cho vay với mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ 10 lần trở lên (và có tính chất chuyên bóc lột) được xác định là hành vi phạm tội cho vay lãi nặng.

Theo Điều 163 trên, nếu chỉ để có một cái ngưỡng/khung nhằm xác định tội danh cho vay lãi nặng thì hiển nhiên không cần phải có lãi suất cơ bản. Có thể chọn luôn một trong những lãi suất chính sách của NHNN như lãi suất cho vay qua đêm, lãi suất liên ngân hàng, lãi suất tối đa mà nếu lãi suất cho vay vượt trên mức đó thì sẽ bị coi là cho vay lãi nặng. Nếu cho rằng mức gấp 10 lần của các lãi suất chính sách hiện hành của NHNN là chưa đủ cao thì hoàn toàn có thể nâng số đó lên, chẳng hạn 15 lần. Làm như vậy sẽ vừa bảo đảm được tính linh hoạt của mức lãi suất làm cơ sở tính toán theo điều kiện thị trường mà không phải công bố thêm một chỉ tiêu lãi suất thừa, vừa bảo đảm được rằng khung giới hạn là đủ cao để hạn chế hành vi cho vay lãi nặng.

Tóm lại, qua phân tích ở trên có thể rút ra 2 điều. Thứ nhất, không cần phải có điều luật trong Bộ luật Dân sự để khống chế lãi suất cho vay trong quan hệ dân sự. Thứ hai, không cần phải có lãi suất cơ bản, thay vào đó có thể dùng một trong những lãi suất chính sách của NHNN để làm cơ sở xác định tội danh cho vay lãi nặng.

Friday 22 May 2015

Tăng cường trách nhiệm trong thu chi ngân sách nhà nước (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 23/5/2015)

http://daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=349862

Dự toán ngân sách nhà nước (NSNN) 2014 được QH thông qua gồm tổng thu NSNN là 782,7 nghìn tỷ đồng, tổng chi NSNN là 1.006,7 nghìn tỷ đồng, và bội chi NSNN là 224 nghìn tỷ đồng, tương đương 5,3% GDP kế hoạch.

Tại Kỳ họp thứ Tám, QH Khóa XIII (tháng 10, 11.2014), Chính phủ đã báo cáo QH tổng số thu NSNN ước đạt 846,4 nghìn tỷ đồng, tổng số chi NSNN ước đạt 1.007,4 nghìn tỷ đồng, và mức thâm hụt NSNN vẫn là 224 nghìn tỷ đồng.

Trong báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện NSNN năm 2014, tình hình triển khai thực hiện dự toán NSNN năm 2015, Chính phủ báo cáo tổng thu NSNN thực hiện là 863,52 nghìn tỷ đồng. Về tổng chi NSNN, điều đáng chú ý là Chính phủ chưa/không công bố con số tổng chi thực hiện năm 2014. Thay vào đó, Chính phủ lại dựa vào mức bội chi NSNN được QH thông qua là 224 nghìn tỷ đồng để “đánh giá” rằng tổng chi NSNN là 1.087,5 nghìn tỷ đồng, tức là đúng bằng tổng thu thực tế là 863,52 nghìn tỷ đồng + bội chi theo dự toán/báo cáo là 224 nghìn tỷ đồng.

Lý giải cho việc tính tổng chi NSNN như trên không xuất phát từ việc cộng dồn các khoản chi thực tế, Chính phủ cho biết giải ngân vốn ODA – một hạng mục chính được coi là nguyên nhân tăng bội chi – đạt hơn 5,6 tỷ USD trong năm 2014, tăng rất cao so với dự toán. Nhưng Chính phủ lấy lý do là chưa tổng hợp được số liệu chuẩn xác về giải ngân ODA năm 2014 (nói thêm dưới đây) nên chưa thể tính được tổng chi NSNN.

Điều đáng nói là, về bản chất, vốn ODA và giải ngân vốn ODA là một nguồn tài chính bổ sung cho nguồn thu NSNN để tài trợ thêm cho chi tiêu NSNN, chứ không phải là một hạng mục từ chi NSNN, cũng tương tự như, ví dụ, nguồn vốn huy động từ phát hành trái phiếu Chính phủ. Bởi vậy, cho dù giải  ngân vốn ODA có tăng vượt kế hoạch, thì điều này nên chỉ có ý nghĩa là nguồn tài trợ cho chi tiêu NSNN đã tăng lên, hoặc đã được bổ sung vượt kế hoạch. Nguồn thu tăng lên này, về nguyên tắc, không thể tự động được coi là, hay là được gắn với bất kể một khoản chi nào mà vì thế phải tiêu ngay cho bằng hết. Vậy thì không thể lấy lý do vì đã giải ngân mạnh vốn ODA nên phải chi tiêu hết phần giải ngân ODA vượt trội so với dự toán này, kể cả vào các dự án đầu tư phát triển sử dụng vốn ODA, từ đó làm tăng bội chi.

Lẽ ra, Chính phủ đã có thể dùng phần thu vượt trội so với dự toán từ giải ngân vốn ODA để thay thế cho các nguồn thu khác kém bền vững hơn như vay nợ Chính phủ, và phát hành trái phiếu (nhất là trái phiếu ngoại tệ). Làm như vậy không chỉ bảo đảm tính bền vững hơn cho cơ cấu nguồn thu hoặc nguồn tài chính bổ sung mà còn bảo đảm mức chi, không dẫn đến bội chi vượt mức.

Trong báo cáo thẩm tra, UB Tài chính - Ngân sách đã phải đề nghị Chính phủ thực hiện đúng quy định trong Điều 49 Luật NSNN và Nghị quyết số 78/2014/QH13 của QH. Theo đó trong trường hợp giải ngân vốn ODA vượt dự toán, Chính phủ phải báo cáo UBTVQH trướác khi thực hiện. UB Tài chính - Ngân sách cũng yêu cầu Chính phủ tính bội chi ngân sách năm 2014 trên cơ sở vốn ODA thực tế giải ngân chứ không phải mức dự toán giải ngân.

Chính phủ có giải trình lý do cho việc “tạm” xác định vốn ODA thực tế giải ngân bằng mức dự toán giải ngân vì vốn ODA năm 2014 thực hiện theo tiến độ đầu tư, cần phải tiếp tục tổng hợp, chuẩn xác thêm số liệu thì sẽ báo cáo QH; khi quyết toán, số vốn vay ODA giải ngân vượt dự toán sẽ được kiến nghị cho phép điều chỉnh tương ứng vào số bội chi NSNN năm 2014. Theo đó, rõ ràng kỷ luật ngân sách không được tôn trọng vì chi tiêu NSNN luôn có cớ để được đẩy lên (cụ thể ở đây là do giải ngân vốn ODA nhiều hơn).

Ngoài ra cũng cần lưu ý rằng, quy định hiện tại chỉ yêu cầu Chính phủ báo cáo UBTVQH trong trường hợp giải ngân vốn ODA vượt dự toán mà không nói rõ rằng khi được báo cáo thì UBTVQH cần và có thể làm những gì?

Bài học cần rút ra là Chính phủ phải tăng cường trách nhiệm của mình trong công tác thu, chi ngân NSNN, hợp lý hóa, tối ưu hóa các nguồn thu và các khoản chi ngân sách luôn với tinh thần giảm thiểu bội chi. Về phía QH và các cơ quan chuyên trách, trực thuộc cần tăng cường trách nhiệm của mình về cơ chế và chế tài giám sát hoạt động NSNN của Chính phủ để khắc phục những lỗ hổng như đã chỉ ra trên đây.

Saturday 16 May 2015

Để phát triển hiệu quả hệ thống đường cao tốc (Bài đăng trên TBKTSG, 17/5/2015)

http://www.thesaigontimes.vn/130251/de-phat-trien-hieu-qua-he-thong-duong-cao-toc.html/

Việt Nam đang có kế hoạch xây dựng hàng loạt đường cao tốc từ Bắc đến Nam nhằm đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải chất lượng cao tăng theo đà phát triển kinh tế. Tuy nhiên, dư luận hiện đang quan tâm nguồn vốn nào cho dự án này, và chi phí xây dựng đường cao tốc ở Việt Nam thuộc hạng cao so với thế giới trong khi chất lượng đường thì thấp và mức phí mà người dân phải trả để sử dụng đường cao tốc cũng ở mức cao.

Lựa chọn hình thức hợp tác công tư phù hợp
 
Trong bối cảnh ngân sách nhà nước hạn hẹp không đáp ứng được nhu cầu ngày càng tăng về vốn đầu tư phát triển, xây dựng, quản lý và bảo trì hệ thống đường cao tốc, trong khi trình độ quản lý của các doanh nghiệp nhà nước liên đới lại bất cập thì việc kêu gọi và để khu vực tư nhân bỏ vốn tham gia vào xây dựng và quản lý hệ thống đường cao tốc là một điều tất yếu. Như vậy vừa có thể san sẻ gánh nặng tài chính, đồng thời nâng hiệu quả và chất lượng hoạt động của hệ thống đường cao tốc.
 
Nhìn chung, khu vực tư nhân có thể tham gia vào lĩnh vực đường cao tốc thu phí dưới bốn hình thức sau: (1) bảo trì và điều hành (MO); (2) tu bổ, điều hành và chuyển giao (ROT); (3) xây dựng, điều hành và chuyển giao (BOT); và (4) quản lý/bảo trì hành lang (CM). Tùy thuộc vào mục tiêu chủ yếu của mình là gì, chính phủ chọn ra hình thức tham gia của khu vực tư nhân cho phù hợp.
 

Nếu tìm kiếm thêm các nguồn thu mới thì cả bốn hình thức hợp đồng hợp tác trên đều thỏa mãn tiêu chí này (với trường hợp đường cao tốc hiện có thì điều này - Chính phủ có thêm nguồn thu mới - chỉ đúng khi đường đó chưa được thu phí). Tương tự, cả bốn hình thức này đáp ứng được mục đích của Chính phủ muốn cải thiện chất lượng bảo trì. Ngược lại, nếu Chính phủ mong muốn có thêm đường cao tốc mới thì hầu như chỉ có hình thức BOT là đáp ứng được.
 
Nên khuyến khích đầu tư tư nhân
 
Chính phủ cần mở cửa và khuyến khích các nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn vào lĩnh vực hạ tầng, cũng tương tự như các khoản đầu tư của họ vào các lĩnh vực khác của nền kinh tế, để hình thành nên những công trình hạ tầng tư nhân có thu phí theo các đơn đặt hàng trực tiếp của Chính phủ. Khi các nhà đầu tư tư nhân bỏ vốn xây dựng, điều hành, quản lý cơ sở hạ tầng thì không những hệ thống hạ tầng quốc gia sẽ có thêm các công trình mới, mà các dự án tư nhân còn tránh được tình trạng các dự án cơ sở hạ tầng nói chung và đường cao tốc nói riêng của Chính phủ cứ bị đội vốn mà hầu như không thể quy trách nhiệm cho ai được ngoài những lý do “khách quan” như ở Việt Nam hiện nay.
 
Tuy vậy, có một số rủi ro gắn với việc tư nhân đẩy mạnh đầu tư vào hạ tầng. Rủi ro thứ nhất là đầu tư vào hạ tầng sẽ “cào” bớt đầu tư tư nhân vào các lĩnh vực khác trong nền kinh tế, vốn cũng có thể rất hiệu quả đối với cả nền kinh tế nói chung. Trên ý nghĩa này, cần tích cực kêu gọi đầu tư từ nước ngoài để có thêm một nguồn vốn bổ sung khác. Điều này đặc biệt quan trọng khi nhu cầu vốn đầu tư trong nước đã tăng cao đến mức căng thẳng.
   
Rủi ro thứ hai là sự phát triển của đầu tư tư nhân vào hạ tầng sẽ trực tiếp hay gián tiếp làm tăng gánh nặng trách nhiệm của Chính phủ trong dài hạn. Chẳng hạn, trong lúc các dự án hạ tầng tư nhân đang được xúc tiến, vì một lý do nào đó như khủng hoảng kinh tế, hay vì lạm phát mà ngân hàng trung ương buộc phải thắt chặt chính sách tiền tệ, làm cho các chủ đầu tư tư nhân không thu xếp được vốn để tiếp tục các dự án hạ tầng dang dở của mình. Lúc này, Chính phủ buộc phải lựa chọn hoặc phải ra tay cứu trợ các nhà đầu tư (ví dụ, bằng các gói tín dụng lãi suất ưu đãi như trong ngành bất động sản hiện nay), hoặc chấp nhận cho phá sản kế hoạch phát triển hạ tầng của mình với nhiều công trình đã đặt hàng nhưng phải bỏ dở, gây lãng phí lớn cho xã hội.

Việc cân bằng giữa lợi ích và rủi ro mang lại từ đầu tư tư nhân vào hạ tầng làm cho công tác hoạch định chiến lược đúng đắn và phù hợp của Chính phủ trở nên cực kỳ quan trọng. Điều cần lưu ý là mối quan ngại chủ yếu hiện nay của Chính phủ và các bên liên quan với đầu tư tư nhân vào hạ tầng vẫn chỉ chủ yếu là sợ các nhà đầu tư tư nhân thu phí cao ở mức bắt chẹt hoặc ảnh hưởng đến “an ninh”, đến quyền lợi tự do đi lại của dân chúng. Những rủi ro như phân tích trên đây dường như chưa bao giờ được đề cập.
 
Gọi và đấu thầu hiệu quả
 
Việc gọi và đấu thầu ở Việt Nam từ trước đến nay vẫn là điều gây “lùm xùm”, với nhiều vụ thông thầu, chỉ định thầu, hoặc bỏ thầu theo kiểu dùng “quân xanh, quân đỏ”. Kết cục là kết quả trúng thầu không hiếm khi ở mức quá cao, rốt cuộc chi phí sẽ được đổ lên đầu người sử dụng, hoặc phải được bù lỗ, trợ cấp từ ngân sách.
 
Kể cả trong nhiều trường hợp gọi và đấu thầu nghiêm túc thì vẫn có nhiều tồn tại, thiếu hiệu quả, do đó làm đội chi phí xây dựng. Chẳng hạn, trong hồ sơ gọi thầu, Chính phủ đưa ra những quy cách yêu cầu hoặc quá chi tiết, phức tạp và tốn kém, hoặc quá mơ hồ, không rõ ràng. Kết quả hoặc là Chính phủ nhận được kết quả trúng thầu ở mức quá cao so với dự tính của mình, khó đáp ứng được. Hoặc là do nản lòng với các điều kiện đấu thầu nên nhiều chủ đầu tư tiềm năng bỏ cuộc vì không muốn lãng phí tiền vào việc chuẩn bị hồ sơ dự thầu quá phức tạp mà không chắc chắn kết quả, dẫn đến chỉ có một số ít nhà đầu tư đáp ứng được các điều kiện bỏ thầu, đổi lại họ bỏ với giá cao. Một đúc kết đã được quốc tế tán đồng là: “Những dự án tốt là những dự án mà nhà nước thực hiện tốt việc vạch ra được đầu ra mà mình mong muốn, chứ không phải là đầu vào”.

Sự mơ hồ, không rõ ràng của việc gọi thầu cũng làm cho một số nhà đầu tư tiềm năng lo ngại rằng những khó khăn về mặt pháp lý trong tương lai sẽ làm giảm thu nhập dự kiến của dự án. Bởi vậy, ngoài chuyện hạn chế những tiêu cực trong công tác đấu thầu, vấn đề nâng cao hiệu quả gọi và đấu thầu là một trong những trọng tâm trong chiến lược phát triển hạ tầng ở Việt Nam.
 
Kiểm soát chi phí xây dựng và hoạt động
 
Những nguyên nhân khác làm đội chi phí xây dựng và điều hành các dự án hạ tầng ở Việt Nam là yếu kém về quản lý dự án; sử dụng quá nhiều nhà thầu phụ nên tạo ra nhiều tầng nấc quản lý không cần thiết, vừa gây tốn kém cho dự án, vừa làm suy giảm chất lượng quản lý nói chung của cả dự án như việc đảm bảo tiến độ, chất lượng, và giảm thất thoát; và việc Chính phủ, vì lý do chủ quan hay khách quan, mua nguyên vật liệu với giá cao hơn thực tế trên thị trường... Khắc phục được những vấn đề này không phải là đơn giản, một sớm, một chiều, nhưng cũng là một trong những việc chính cần làm để xây dựng được một hệ thống cơ sở hạ tầng phát triển ở Việt Nam.

Friday 15 May 2015

Những vấn đề kinh tế Quốc hội cần mổ xẻ ở Kỳ họp thứ Chín (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 16/5/2014)

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=349212


Tại Kỳ họp thứ Chín dự kiến khai mạc vào ngày 20.5 tới, Quốc hội sẽ dành thời gian thảo luận về tình hình KT - XH. Trong bài này, chúng ta sẽ làm rõ các vấn đề kinh tế hiện nay mà Quốc hội cần quan tâm trong kỳ họp giữa năm này.

Trong Báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện Nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển KT - XH năm 2014; kết quả thực hiện những tháng đầu năm 2015 tại Phiên họp thứ 38 vừa qua của UBTVQH, Ủy ban Kinh tế đã chỉ ra được một số khó khăn và thách thức chính cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới. Đó là tăng trưởng chưa thực sự bền vững, chủ yếu do đóng góp của công nghiệp chế biến, chế tạo và khai khoáng (dầu mỏ, than đá), trong khi tăng trưởng của ngành nông, lâm, ngư nghiệp còn thấp; nhập siêu lớn; nợ công tiếp tục gia tăng với tốc độ cao; và cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và thoái vốn còn chậm... Đồng thời, Ủy ban Kinh tế cũng đề xuất một số nhiệm vụ và giải pháp cho thời gian tới. Tuy nhiên, những nhiệm vụ và giải pháp đưa ra dường như không trực tiếp nhằm giải quyết những khó khăn và thách thức này. Bởi vậy, câu hỏi cần làm gì để xử lý các khó khăn và thách thức trên một cách hữu hiệu trong thời gian tới vẫn còn bị bỏ ngỏ. Trong bài này, ta sẽ mổ xẻ thêm về hiện trạng và tìm giải pháp cho các vấn đề kinh tế hiện nay.

Về tình trạng phát triển “lệch” giữa các ngành kinh tế, lý do không khó tìm. Cũng tương tự như với tình hình trong lĩnh vực xuất khẩu, các hoạt động trong ngành công nghiệp chế biến, chế tạo hoạt bát lên chủ yếu nhờ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (FDI), với những doanh nghiệp lớn như Samsung đóng góp nhiều tỷ dollar cho xuất khẩu. Trong khi đó, ngành công nghiệp khai khoáng cũng được đẩy mạnh với sản lượng dầu khí và than tăng nhanh so với cùng kỳ năm trước. Ngược lại, ngành nông, lâm, ngư nghiệp thì lại “lận đận” vì sản xuất ra mà không tiêu thụ mạnh được, do đầu ra xuất khẩu bế tắc.

Trong bức tranh như vậy, nhận xét của Ủy ban Kinh tế rằng tăng trưởng chưa thật sự bền vững là rất có lý. Tăng trưởng nếu dựa nhiều vào các doanh nghiệp ngoại, thị trường ngoại thì sẽ gặp rủi ro khi nền kinh tế thế giới chao đảo. Thị trường nội địa sẽ là bệ đỡ, chống sốc cho nền kinh tế và là nền tảng cho tăng trưởng bền vững trong dài hạn. Đồng thời, tăng trưởng dựa nhiều vào khai khoáng, đặc biệt khi khoáng sản dành một phần đáng kể cho xuất khẩu như dầu thô và than đá cũng không bền vững do khoáng sản của Việt Nam không dồi dào, chi phí khai thác ngày càng tăng lên, trong khi đầu ra phụ thuộc vào nhu cầu của thế giới. Chưa kể, tăng trưởng trong công nghiệp khai khoáng có được như vừa rồi là do tăng về sản lượng, chứ không phải tăng về giá trị (vì giá dầu thô và than đá đã giảm mạnh), nên sự tăng trưởng đó chỉ là bóc ngắn cắn dài.

Trong ngành nông, lâm, ngư nghiệp, có một nghịch lý là trong khi nông sản đang dư thừa, Việt Nam vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn nông sản. Ví dụ, mỗi năm Việt Nam vẫn phải nhập đến 800 triệu USD tôm nguyên liệu.

Vậy giải pháp căn bản là phải bảo vệ và phát triển thị trường nội địa và các ngành công nghiệp nội địa thông qua hạn chế nhập khẩu, bảo đảm xuất siêu. Nhưng Việt Nam đã và sẽ ký các hiệp định thương mại tự do nên không thể bảo vệ thị trường và công nghiệp nội địa bằng hàng rào thuế quan được nữa. Dùng hàng rào phi thuế quan như hàng rào kỹ thuật thì cũng không luôn khả thi vì đòi hỏi kỹ thuật chuyên môn và phí tổn không hề nhỏ, chưa kể cũng không tránh khỏi có các lỗ hổng để lách luật. Do đó, công cụ tỷ giá hầu như là công cụ hữu hiệu duy nhất còn lại, trong ngắn hạn.

Nhưng tiếc là VNĐ đã được neo khá chặt vào USD và đã lên giá thực so với hầu hết các bản tệ chính trên thế giới, đặc biệt khi USD đã lên giá mạnh kể từ giữa năm 2014 so với nhiều bản tệ khác. Điều này đã trực tiếp góp phần làm giảm sức cạnh tranh của hàng Việt Nam không chỉ trên các thị trường xuất khẩu mà ngay cả trên sân nhà. Đây chính là một trong những nguyên nhân chính dẫn đến nhập siêu lớn trong mấy tháng đầu năm nay. Do đó, trong lúc vẫn tiếp tục các giải pháp dài hơi mà chương trình tái cơ cấu nền kinh tế đã đề ra từ trước, biện pháp cần làm ngay là chủ động điều chỉnh tỷ giá VNĐ thêm nữa để bảo đảm tính cạnh tranh của hàng Việt Nam trong và ngoài nước.

Về nợ công và cổ phần hóa, thoái vốn DNNN, thực ra 2 vấn đề này có liên quan với nhau. Một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến nợ công tăng cao là Nhà nước phải bảo lãnh, cấp vốn và tái cấp vốn, bù lỗ, xóa nợ v.v... cho khu vực DNNN yếu kém, và tất cả chi phí này đều quy ra thành nợ công. Bởi vậy, để giảm nợ công thì việc đầu tiên cần làm là cắt giảm chi phí cho khu vực DNNN. Cổ phần hóa DNNN chính là 1 bước hiện thực việc này. Ngược lại, cổ phần hóa DNNN và thoái vốn lại mang đến một nguồn tài chính mới để giảm áp lực nợ công. Do đó, tầm quan trọng của cổ phần hóa DNNN và thoái vốn cần được quán triệt, không chỉ đơn thuần là Nhà nước không còn cần phải “ôm” những doanh nghiệp này nữa nên bán đi.

Về giải pháp tăng cường cổ phần hóa DNNN và thoái vốn, ngoài những đề xuất khá chung chung, Ủy ban Kinh tế đề xuất ban hành luật hoặc nghị quyết riêng về cổ phần hóa DNNN để bảo đảm hiệu quả của quá trình cổ phần hóa, tăng cường giám sát của Quốc hội. Tuy nhiên, điều cần hiện nay là thực thi hữu hiệu các giải pháp và luật lệ đã đề ra, chứ không phải là cần thêm luật hay nghị quyết. Điều này được thể hiện rõ trong tiến trình cổ phần hóa DNNN hiện nay. Bất chấp sự hối thúc sát sao, cương quyết và các chính sách từ răn đe đến hỗ trợ, tạo điều kiện của Chính phủ, việc cổ phần hóa hơn 400 doanh nghiệp trong 2 năm 2014 - 2015 xem ra là không thể. Do đó, làm thế nào để thực thi hữu hiệu giải pháp cổ phần hóa DNNN là điều Quốc hội và Chính phủ sẽ phải tập trung làm rõ trong thời gian tới.

Tuesday 12 May 2015

Mua toàn bộ cổ phần ngân hàng giá 0 đồng liệu có làm nản lòng nhà đầu tư? (Bài đăng trên CafeF, 12/5/2015, bản gốc)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/mua-toan-bo-co-phan-ngan-hang-gia-0-dong-lieu-co-lam-nan-long-nha-dau-tu-20150512105218367.chn

Việc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) mua bắt buộc Ngân hàng Xây dựng và Ngân hàng Đại dương với giá 0 đồng/cổ phần đã đặt ra một loạt câu hỏi thiết thực và sát sườn: Liệu các vụ quốc hữu hóa ngân hàng như thế này có làm cho nhà đầu tư hoảng sợ, tháo chạy khỏi hệ thống ngân hàng không? Ai sẽ bảo vệ nhà đầu tư khi họ bỏ tiền vào ngân hàng mà mất sạch? Và trách nhiệm cơ quan quản lý ở đâu và như thế nào...?

 Để trả lời những câu hỏi này, trước tiên cần hiểu về bối cảnh cho những vụ quốc hữu hóa, mua lại bắt buộc với cái giá 0 đồng này.
Các ngân hàng thuộc diện bị mua lại bắt buộc với cái giá 0 đồng trên và sau này, nếu có, đều là các ngân hàng cực kỳ yếu kém, vốn chủ sở hữu thậm chí đã tụt xuống âm. Thực chất các ngân hàng này đã lâm vào tình trạng phá sản kỹ thuật, không được phép tồn tại và hoạt động theo luật định, và thuộc diện bị/cần cho phá sản. Nhưng NHNN đã có phương châm không để ngân hàng nào phá sản, chủ yếu với lý do e ngại sự phản ứng dây chuyền thái quá của nhà đầu tư cũng như người gửi tiền ở các ngân hàng này và các ngân hàng còn lại trong hệ thống, có nguy cơ dẫn đến sự đổ vỡ của cả hệ thống.
Bởi vậy, phương sách thay thế đỡ tệ hơn việc để cho các ngân hàng này phá sản là mua lại bắt buộc với giá 0 đồng, và việc này là hợp pháp vì đã được luật hóa theo Quyết định 48/2013/QĐ-TTg. Vì là được mua lại (bắt buộc) nên trên danh nghĩa các ngân hàng này vẫn tồn tại, và trên thực tế đã bị quốc hữu hóa, biến thành ngân hàng 100% thuộc sở hữu nhà nước. Tất nhiên, để các ngân hàng này hoạt động bình thường trở lại, phù hợp và đáp ứng các luật lệ và tiêu chuẩn an toàn hoạt động thì NHNN phải tốn thêm một mớ tiền nhiều chục nghìn tỷ đồng nữa, cùng với hàng loạt hành động đằng sau hậu trường từ nhân sự đến xử lý tồn đọng liên quan đến pháp lý...
Trong bối cảnh như vậy, nhà đầu tư và cả người gửi tiền đã và nên hiểu rằng từ bây giờ trở đi tuy vẫn có thể NHNN không để cho ngân hàng nào phá sản nhưng tài sản của nhà đầu tư và người gửi tiền sẽ không còn luôn tuyệt đối an toàn nữa. Với nhà đầu tư mua cổ phần ngân hàng, cổ phần của họ có thể vẫn còn đó, nhưng sẽ có thể chỉ còn là mớ giấy lộn. Với người gửi tiền, có thể tiền gửi của họ vẫn sẽ được chi trả dưới thời “ông chủ” mới nhưng trong giai đoạn lộn xộn khi ngân hàng bị đặt trong diện mua lại bắt buộc thì việc rút tiền ra có thể có thời điểm nào đó bị đóng băng.
Như thế, khó mà nói rằng nhà đầu tư và người gửi tiền sẽ hoảng sợ, không còn muốn đầu tư hay gửi tiền vào hệ thống ngân hàng nữa. Vẫn còn nhiều ngân hàng lành mạnh trong hệ thống ngân hàng đáng để đầu tư, và khả năng đổ vỡ của hệ thống đã và đang được kiểm soát tốt bởi NHNN. Nhưng có một điều chắc chắn rằng nhà đầu tư và người gửi tiền từ nay trở đi sẽ phải thận trọng hơn với đồng tiền của mình, không còn và không nên giữ tinh thần “lãi mình hưởng, thiệt hại nhà nước chịu” để nhắm mắt đổ tiền vào bất cứ ngân hàng nào sinh lợi cao bất chấp rủi ro đổ vỡ như thế nào.
Về câu hỏi, ai sẽ bảo vệ nhà đầu tư để tránh tình trạng bỏ tiền ra rồi mất sạch khi bị NHNN mua lại với giá 0 đồng, và trách nhiệm của cơ quan quản lý. Nhà đầu tư trước tiên phải tự bảo vệ mình. Việc đầu tư luôn là việc mạo hiểm, kèm rủi ro, ở nhiều mức độ khác nhau, tùy thuộc vào bản chất và hạng mục đầu tư của mình. Bởi vậy, sự nhanh nhậy, tính toán khôn ngoan, cẩn trọng luôn là điều cần thiết trước và trong mỗi quyết định đầu tư. Với trường hợp các ngân hàng bị mua lại như trên, nếu khôn ngoan, tỉnh táo thì nhà đầu tư đã phải rút vốn, thậm chí bán tống bán tháo được đồng nào hay đồng đó từ rất sớm, khi có dấu hiệu rằng các ngân hàng này đang gặp rắc rối. Nhưng cũng có thể vì không biết, không quan tâm, vì hy vọng rằng mọi chuyện sẽ ổn thỏa, vì tiếc tiền... nên nhiều nhà đầu tư mắc kẹt, không kịp thoát ra trước khi mọi giao dịch cổ phiếu của ngân hàng bị đóng băng. Để liên hệ với chuyện này, hãy cùng nhớ lại rằng mỗi khi các hãng lớn trên thế giới có một vấn đề gì đó phát sinh, lập tức giá cổ phiếu của họ chao đảo, do hành động bán tháo, cắt lỗ của nhà đầu tư trước nguy cơ hãng này bị sa vào những tình huống khó khăn.
Tất nhiên, cũng như với mọi thị trường hàng hóa và dịch vụ khác, nhà đầu tư trong thị trường ngân hàng cũng được bảo vệ bởi các tầng lớp luật lệ và quy định, để đảm bảo tài sản của nhà đầu tư không tự nhiên biến mất một cách oan ức và vô lý được. Nhưng sự bảo vệ này cũng không có nghĩa là nhà đầu tư sẽ luôn an toàn, vô sự. Ngược lại, nhà đầu tư, như đã nói ở trên, cần phải nhạy bén, khôn ngoan, tỉnh táo để phát hiện ra những nguy cơ rủi ro trong khoản đầu tư của mình nếu đối chiếu với các quy định và luật lệ hiện hành để mà có quyết định sớm về khoản đầu tư của mình.
Đồng thời cũng trên phương diện luật định này, có thể chỉ ra ngay trách nhiệm của NHNN và các cơ quan liên đới. Tuy đã ban hành nhiều luật định và có cơ chế và bộ máy theo dõi, giám sát đồ sộ, nhưng những nhà quản lý đã không kịp thời phát hiện, cảnh báo những trường hợp như Ngân hàng Xây dựng và Ngân hàng Đại dương để đến nỗi chúng rơi vào tình trạng âm vốn chủ sở hữu thì mới có hành động đối phó. Lẽ ra, chỉ cần vốn chủ sở hữu tụt xuống thấp hơn mức an toàn tối thiểu quy định cho cả hệ thống thì NHNN đã phải hành động tương thích để ngăn chặn tình trạng của chúng tiếp tục xấu đi, đe dọa đến tính an toàn của cả hệ thống. Bởi vậy, nếu cổ đông các ngân hàng này nên trách mình một thì họ cũng có quyền và nên trách NHNN mười vì đã không làm tròn trách nhiệm với tư cách là cơ quan quản lý, giám sát, gây thiệt hại nặng nề cho họ.
Mặt khác, cũng cần phải nhấn mạnh rằng có nhiều tầng lớp luật lệ, quy định cũng không có nghĩa là các luật lệ và quy định hiện nay là hoàn thiện, đầy đủ rồi. Ngược lại, luôn có những lỗ hổng lớn trong luật, như được minh họa qua các vụ án liên quan đến ngân hàng gần đây, cho thấy nhu cầu phải bổ sung và hoàn thiện các luật lệ và quy định hiện hành để bảo vệ hữu hiệu hơn nữa nhà đầu tư và người gửi tiền.
Chưa hết, trong trường hợp mua lại các ngân hàng vừa qua, lẽ ra NHNN phải công khai hóa ngay từ đầu những ngân hàng nào thuộc diện yếu kém, cần tái cơ cấu, và/hoặc những ngân hàng nào đang bị đặt trong diện kiểm soát đặc biệt, là đối tượng cho những hành động tiếp theo của NHNN v.v..., để các nhà đầu tư và người gửi tiền có quyết định phù hợp. Tình trạng u u, minh minh, mập mờ về thông tin là một trong những nguyên nhân cho những lời phàn nàn uất ức của một số nhà đầu tư, nhất là nhà đầu tư nhỏ lẻ không có cách gì biết được điều gì đang xảy ra đằng sau hậu trường các ngân hàng này.
Nếu lo ngại việc minh bạch và công khai hóa này sẽ làm rúng động cả hệ thống, thì NHNN có thể tái lập mạnh mẽ cam kết của mình như không để đổ vỡ mang tính hệ thống, không để người gửi tiền bị thiệt hại. Song song với đó, cần thiết phải sửa lại mức chi trả quy định bảo hiểm tiền gửi vốn đã lạc hậu từ lâu. Nhà quản lý cũng cần tiến tới việc chấp nhận để/buộc các ngân hàng yếu kém phá sản để các quy luật thị trường phát huy đầy đủ tác dụng trong việc tưởng thưởng và trừng phạt nhà đầu tư.

------------------------
Cập nhật: Bài này đã bị gỡ xuống


Cập nhật tiếp ngày 13/5: Một số  bài khác của tớ gần đây cũng đã bị gỡ xuống, chắc do áp lực của ai đó.

Monday 11 May 2015

Cần quan niệm lại về mặt trái của phá giá VND (Bài đăng trên CafeF, 11/5/2015)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/can-quan-niem-lai-ve-noi-lo-pha-gia-vnd-20150511090050202.chn

Sau khi Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phá giá VND thêm 1 điểm phần trăm ngày 7/5, đã có nhiều tin bài đề cập đến những nỗi khổ mang lại cho các doanh nghiệp và người dân từ chuyện phá giá này của NHNN.

Về nỗi khó cho doanh nghiệp nhập khẩu, quả là trên thực tế có thể có nhiều doanh nghiệp nhập khẩu nguyên liệu để sản xuất và tiêu thụ trong nước, hoặc cũng có nhiều doanh nghiệp khác đơn thuần nhập khẩu hóa về để bán lại trong nước - thực chất là nhà phân phối, kinh doanh – sẽ phải trả nhiều VND hơn cho đơn hàng nhập khẩu của mình bằng USD. Tác động tiêu cực của phá giá VND lên những doanh nghiệp này là không thể phủ nhận.

Nhưng tác động tiêu cực lên nhập khẩu này chính là một trong những mục đích nhắm đến một cách chủ ý của phá giá các bản tệ nói chung trên thế giới và VND nói riêng. Phá giá sẽ gây bất lợi cho nhập khẩu, buộc các doanh nghiệp phải cắt giảm nhập khẩu, thay thế nhập khẩu bằng hàng sản xuất trong nước, hoặc buộc các chủ thể kinh tế tiêu thụ hàng nhập khẩu phải cắt giảm mức tiêu thụ hàng nhập khẩu của mình để chuyển sang dùng hàng trong nước.

Trở lại với những trường hợp thiệt hại như nêu trên. Với doanh nghiệp nhập khẩu 100% nguyên liệu để sản xuất và tiêu thụ trong nước, khi VND bị mất giá so với USD, họ buộc phải nâng giá bán sản phẩm trong nước để bù đắp phần chênh lệch VND phải bỏ ra để nhập khẩu nguyên liệu. Nếu không nâng được giá bán tương ứng, chịu áp lực thu hẹp lợi nhuận thì các doanh nghiệp này phải quay ra ép các đầu mối xuất khẩu cho họ hạ giá xuất khẩu cho họ, cũng hệt như lý do mà các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam phàn nàn khi bị các đối tác nhập khẩu ở châu Âu và Nhật ép giá xuất khẩu với lý do là euro và yen đã mất giá mạnh so với USD. Tức là tình hình thực ra cũng không đến nỗi bi quan như các doanh nghiệp này kêu ca (và tội gì không kêu ca?).

Nếu không may mà cả việc nâng giá bán trong nước lẫn việc ép đối tác xuất khẩu phải hạ giá xuất khẩu cho mình đều không thành thì các doanh nghiệp nhập khẩu chỉ còn cách là chuyển sang tìm nguồn hàng cung cấp trong nước với giá rẻ hơn để tiếp tục sản xuất, kinh doanh. Và nếu vẫn không suôn sẻ hoặc không may nữa thì các doanh nghiệp này hoặc phải thu hẹp quy mô sản xuất, kinh doanh, hoặc phải đóng cửa.

Nhưng sự việc không dừng lại ở đây. Khi doanh nghiệp nhập khẩu thu hẹp quy mô hoặc đóng cửa, chúng sẽ để ngỏ nhu cầu tiêu thụ các mặt hàng này cho các doanh nghiệp khác trong nước gia tăng sản xuất để đáp ứng. Đây chính là một trong những lý do tại sao Nga không hoàn toàn vui với việc đồng rouble của họ đã phục hồi ngoạn mục trong mấy tháng nay, vì sự phục hồi này sẽ làm gián đoạn quá trình gia tăng phát triển của các ngành kinh tế thay thế nhập khẩu trong nước chớp thời cơ đồng rouble suy yếu nghiêm trọng trong năm 2014 kết hợp với cấm vận nhập khẩu của phương Tây.

Với những trường hợp thiệt hại vì VND bị phá giá khác như ví dụ về nông dân phải trả nhiều tiền hơn cho phân bón và thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu, trong khi sản phẩm của họ lại được tiêu thụ chủ yếu trong nước. Cũng phải thừa nhận ngay rằng thiệt hại này là nhãn tiền, không thể phủ nhận.

Nhưng cũng tương tự như với trường hợp các doanh nghiệp nhập khẩu đã phân tích ở trên, khi giá vật tư nông nghiệp nhập khẩu đắt đỏ hơn thì nông dân phải tìm đến các nguồn cung trong nước với giá rẻ và ổn định hơn. Việc này sẽ làm gia tăng năng lực sản xuất nội địa của các doanh nghiệp cung ứng vật tư nông nghiệp (sử dụng nguyên liệu) trong nước.

Nếu không may rằng vật tư nông nghiệp do các doanh nghiệp trong nước cung cấp không đủ, không rẻ, hoặc không đảm bảo chất lượng như hàng nhập khẩu thì nông dân sẽ phải tính toán lại bài toán “nuôi con gì, trồng cây gì” để sao cho có lợi nhất, đảm bảo doanh thu và lợi nhuận bất chấp giá vật tư nông nghiệp trong và ngoài nước ở mức cao. Tức là sẽ có một sự chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp theo hướng phù hợp, tuân theo quy luật thị trường.

Lại giả thiết tiếp rằng nông dân không tự mình biết “nuôi con gì, trồng cây gì” cho phù hợp nhất, như đã từng xảy ra với nhiều nông sản ế thừa hiện nay. Khó khăn cả đầu vào lẫn đầu ra đương nhiên sẽ làm nhiều nông dân thua lỗ, thu hẹp hoặc chấm dứt nuôi trồng một số nông sản đang dư thừa hoặc gây lỗ vốn. Điều này làm giảm cung, có lợi cho giá xuất khẩu và tiêu thụ nội địa của những nông sản đó, và tức là làm lợi cho những nông dân sản xuất có hiệu quả khác, một điều cũng hoàn toàn phù hợp với quy luật thị trường.

Tóm lại, mọi chính sách kinh tế đều có tác động hai mặt, sẽ có người lợi và người chịu thiệt. Nhưng điều quan trọng là chính sách kinh tế đó có mang lại ích lợi về tổng thể cho cả nền kinh tế hay không. Trong trường hợp NHNN chấp nhận phá giá VND, điều này có nghĩa là NHNN đã thấy rằng phá giá là điều có lợi trên tổng thể cho cả nền kinh tế hơn là không phá giá. Bởi vậy, không nên vì một số trường hợp bị thiệt hại bởi việc phá giá VND mà chùn tay trong việc phá giá, nếu cần thiết phải vậy.

Saturday 9 May 2015

Xu hướng lạm phát và lãi suất trong thời gian tới (Bài đăng trên CafeF, 9/5/2014)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/xu-huong-lam-phat-va-lai-suat-trong-thoi-gian-toi-20150509143212532.chn


Lãi suất ở Việt Nam hiện nay vẫn còn được cho là đang ở mức cao so với thế giới và đặc biệt là khi so sánh tương đối với mức lạm phát đang khá thấp của Việt Nam. Bởi vậy, nhu cầu hạ lãi suất là một nhu cầu chính đáng với người vay tiền ở Việt Nam hiện nay.
Vậy, trong thời gian tới,  liệu có khả năng lãi suất sẽ hạ đi?


Hiện tại, có thể kể ra mấy yếu tố chính hỗ trợ cho việc giảm lãi suất trong thời gian tới (trong bài này tác giả chỉ nhìn từ 2 kênh tỷ giá và lạm phát).


Yếu tố hỗ trợ giảm lãi suất thứ nhất là áp lực buộc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) phải can thiệp bình ổn tỷ giá VND/USD đã phần nào giảm đi sau khi NHNN tuyên bố phá giá VND thêm 1 điểm phần trăm hôm 7/5. Phá giá VND có lợi cho việc hạ lãi suất VND vì NHNN không còn phải bán ra USD và thu về VND để hỗ trợ cho tỷ giá (nhiều) như trước nữa, và, do đó, tổng cung VND ra nền kinh tế không còn bị suy giảm nữa.


Trong trường hợp người nắm giữ USD thấy lợi vì tỷ giá đã leo lên tầm cao mới nên tăng cường bán ra để chốt lãi, gây áp lực làm tỷ giá giảm trở lại (tức VND tăng giá trở lại so với USD, như đã xảy ra ngay buổi chiều 7/5). Lúc đó, nếu muốn ổn định tỷ giá ở mức mới để có lợi cho cán cân thương mại, NHNN sẽ phải mua vào USD và tăng cung VND ra. Hành động này cũng sẽ có ích cho việc hạ lãi suất VND.


Yếu tố hỗ trợ giảm lãi suất thứ hai là lạm phát đang ở mức thấp kỷ lục trong nhiều năm, làm cho lãi suất tiền gửi đã trở nên thực dương lớn. Việc tăng cung VND qua kênh tỷ giá như nói ở trên, và nếu có thêm việc tăng cung VND của NHNN (tức nới lỏng chính sách tiền tệ) một cách chủ động ở một mức độ nhất định để hạ lãi suất thì lãi suất tiền gửi tuy chịu áp lực hạ đi nhưng vẫn ở mức thực dương, không hoàn toàn làm người có tiền gửi chuyển hết sang nắm giữ các tài sản khác. Lãi suất tiền gửi hạ đi đến lượt nó sẽ gây áp lực giảm lãi suất cho vay của các ngân hàng.


Ngược lại, có mấy yếu tố trái chiều gây áp lực tăng lãi suất.


Thứ nhất, lạm phát thấp như vừa qua và hiện nay ở Việt Nam chủ yếu đến từ giá xăng dầu thế giới sụt giảm mạnh theo đà nối tiếp từ giữa năm trước. Nhưng đà giảm của giá xăng dầu thế giới có dấu hiệu chững lại, thậm chí có lúc còn bật lại mạnh mẽ gần đây, buộc giá xăng dầu trong nước cũng bị điều chỉnh tăng cao theo. Do vậy, lạm phát trong những tháng tới ở Việt Nam ra sao sẽ phụ thuộc một phần lớn vào chiều hướng biến động của giá xăng dầu quốc tế.


Cần lưu ý ở đây thêm một yếu tố liên đới gián tiếp chi phối lạm phát là thuế liên quan đến xăng dầu của Việt Nam. Tận dụng cơ hội giá xăng dầu vẫn còn tương đối thấp, chính phủ đã tăng thuế bảo vệ môi trường trong một động thái được cho là để bù hụt thu ngân sách. Việc này dẫn đến giá xăng dầu trong nước đã đột ngột tăng cao như vừa qua hơn nhiều so với mức tăng trên thị trường quốc tế.


Giá xăng trong nước còn chịu thêm áp lực tăng từ việc mất giá của VND, làm cho giá nhập khẩu xăng dầu tính bằng VND sẽ tăng lên. Những áp lực này chắc chắn sẽ được thể hiện ra ở con số lạm phat trong thời gian tới. Đó là chưa kể hàng loạt hàng hóa và dịch vụ, như giá điện và dịch vụ y tế, giáo dục, cũng đã và đang thi nhau được điều chỉnh tăng nhân đà lạm phát còn thấp.


Thứ hai, trong thời gian tới, nếu áp lực phá giá VND còn tiếp tục dồn nén do, ví dụ, nhập siêu tiếp diễn, và USD tiếp tục lên giá so với các bản tệ trên thế giới…thì NHNN có khả năng phải tiếp tục phá giá VND
thêm một vài điểm phần trăm nữa.


Việc tăng cung VND kể từ đợt phá giá ngày 7/5 cộng thêm với những lần tăng cung VND sau đó để phá giá VND đến lượt nó sẽ gây áp lực ngược trở lại lên lạm phát vì tăng cung VND sẽ làm tăng tổng cầu trong nước, cũng như làm tăng giá hàng hóa nhập khẩu tính bằng VND. Lạm phát tăng buộc NHNN phải thận trọng với hạ lãi suất, hoặc thậm chí còn phải tăng lãi suất lên.


Nhưng lưu ý rằng tác động ngược trở lại của phá giá VND lên lạm phát thường là tác động đi sau, diễn ra sau khi phá giá, và phải cần một thời gian để nền kinh tế điều chỉnh và phản ánh tác động của VND rẻ hơn so với USD vào việc tăng lạm phát ở Việt Nam.


Như vậy, giả sử trong thời gian một vài tháng trước mắt, giá xăng dầu và các loại hàng hóa và dịch vụ cơ bản không tăng mạnh hơn (đáng kể) so với hiện tại thì có thể kỳ vọng mặt bằng lãi suất VND sẽ giảm đi một chút, chủ yếu tương đương với mức độ phá giá còn nhẹ của VND trong hôm 7/5 vừa rồi. Sau đó, vẫn giả sử các yếu tố gây lạm phát khác không biến động mạnh đáng kể, tác động của việc phá giá nhẹ VND sẽ được phản ánh vào một mức lạm phát cao hơn và gây áp lực tăng lãi suất trở lại.


Nếu các đợt phá giá VND sau này,  nếu có, trong năm 2015 càng gần hơn thời điểm ngày 7/5 vừa vừa rồi, và ở mức lớn hơn, thì biên độ biến động lãi suất cũng sẽ lớn hơn, và các giai đoạn biến động lãi suất sẽ đan xen với các giai đoạn phá giá.

Friday 8 May 2015

Chiều hướng biến động tỷ giá VND/USD trong thời gian tới sẽ thế nào? (Bài đăng trên CafeF, 8/5/2015, bản gốc)

http://cafef.vn/tai-chinh-ngan-hang/chieu-huong-bien-dong-ty-gia-vnd-usd-trong-thoi-gian-toi-se-the-nao-20150507233715888.chn

Cuối cùng thì Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cũng đã phải tuyên bố phá giá VND thêm 1 điểm phần trăm nữa hôm 7/5, sau bao lần cương quyết nói không với phá giá vì bao biện rằng không có cơ sở để phá giá, và rằng áp lực phá giá là do yếu tố tâm lý, chứ quan hệ cung cầu ngoại tệ vẫn bình thường, không có gì đột biến.
Vậy đợt phá giá này có phải là đợt phá giá cuối cùng trong năm 2015, sau khi NHNN đã sử dụng hết dư địa 1 điểm phần trăm còn lại trong năm 2015 như tuyên bố ban đầu của họ?
Để trả lời câu hỏi này, cần phải xem nguyên nhân nào buộc NHNN phải thay đổi 180 độ lập trường về tỷ giá của mình đến vậy.
Trước tiên, điều hình thành nên cái mà NHNN gọi là “yếu tố tâm lý” làm tăng áp lực lên tỷ giá VND, như đã biết, đến từ chuyện nhiều đồng bản tệ, trong đó có đồng bản tệ của các đối thủ cạnh tranh xuất khẩu với Việt Nam và bản tệ của các nước là thị trường xuất khẩu chủ chốt của Việt Nam, đã mất giá đáng kể so với USD kể từ giữa năm trước, kéo dài cho đến tận bây giờ, trong khi VND lại được neo chặt vào USD.
Lưu ý là USD đôi lúc có giảm đà tăng, thậm chí còn sụt giảm giá trị so với nhiều đồng bản tệ. Và đây từng là một trong những nguyên nhân chính để NHNN hôm 25/3 tuyên bố không tăng tỷ giá sau một thời gian dài im lặng bất chấp cơn sốt tỷ giá trên thị trường. Có lẽ họ hy vọng rằng áp lực lên giá của VND so với các bản tệ khác sẽ giảm đi khi USD có dấu hiệu hạ nhiệt sau tuyên bố của Fed chưa tăng lãi suất sớm. Tuy vậy, nếu tính bình quân, USD và, do đó, VND đã lên giá đáng kể so với các bản tệ này, kể cả tính đến thời gian hiện tại, so với thời điểm cách đây nửa năm hay 1 năm.
Đó là chưa kể so với ngay chính USD, tuy tỷ giá VND khá ổn định về mặt danh nghĩa trong 2, 3 năm qua, nhưng do chênh lệch lạm phát giữa Việt Nam và Mỹ đã ở mức khá lớn nên VND đã lên giá thực so với USD, và do đó càng lên giá mạnh so với các bản tệ khác.
Theo lẽ tất nhiên, khi VND lên giá thực và đáng kể so với USD và các bản tệ khác thì sẽ tác động tiêu cực trực tiếp đến cán cân thương mại của Việt Nam. Nó sẽ làm cho hàng xuất khẩu của Việt Nam gặp khó ở khắp nơi trên thế giới do kém cạnh tranh về giá, trong khi lại tạo điều kiện cho hàng hóa nhập khẩu từ thế giới tràn vào thị trường nội địa, bóp nghẹt sản xuất trong nước, cũng với cùng lý do là hàng trong nước không cạnh tranh được về giá so với hàng ngoại nhập.
Có lẽ những tác động này là khó nhận biết, cảm nhận, và khó hiểu với nhiều người vì nó mang tính lý thuyết quá. Nhưng nó lại được thực tế phản ánh một cách rõ rệt và chân thực qua nỗi khó khăn của các doanh nghiệp xuất khẩu và sản xuất trong nước do không bán được hàng hoặc phải hạ giá để cạnh tranh với đối thủ ngoại, và qua hiện thực đáng lo là cán cân thương mại đã chuyển từ thặng dư lớn tính chung cho cả năm 2014 sang thâm hụt trên 3 tỷ USD trong mấy tháng đầu năm nay.
Bởi vậy, theo quy luật thị trường thì NHNN sẽ bị áp lực phá giá VND để lập lại cân bằng thương mại. Nhưng tiếc là NHNN, vì đã chót tuyên bố không phá giá VND quá 2 điểm % trong năm nay, lại tìm cách chống lại quy luật này bằng việc cố gắng ổn định tỷ giá.
Nỗ lực ổn định tỷ giá của NHNN không chỉ sẽ làm sụt giảm dự trữ ngoại hối không lấy gì làm dồi dào của mình, mà còn không có tác dụng xả van áp lực lên tỷ giá VND vì áp lực này phần lớn đến từ bên ngoài, ngoài tầm kiểm soát của NHNN, và không hề cho thấy có dấu hiệu sẽ tự động giảm đi, ít nhất trong thời gian ngắn trước mắt.
Có lẽ cũng đã hiểu được tình thế vô vọng trong cuộc chiến bảo vệ tỷ giá trong phạm vi cam kết không quá 2 điểm phần trăm chỉ để giữ chữ tín, NHNN buộc phải buông tay, chấp nhận cho tỷ giá chính thức tăng  thêm 1 điểm phần trăm nữa.
Trên đây là tóm tắt bối cảnh của đợt phá giá ngày 7/5. Từ bối cảnh này, có thể thấy rằng thời gian tới trong năm nay, nếu cán cân thương mại tiếp tục được duy trì ở mức thâm hụt (tức vẫn nhập siêu), và nếu USD mạnh trở lại hoặc tiếp tục mạnh lên hơn nữa so với các đồng bản tệ khác do, ví dụ, Fed (có kế hoạch rõ ràng) nâng lãi suất USD, thì chắc chắn một điều là VND vẫn sẽ tiếp tục chịu áp lực phá giá thêm. Lúc đó, hy vọng rằng NHNN đã rút ra được bài học đắt giá về thị trường, về chữ tín để không khiên cưỡng đi ngược lại quy luật của thị trường. Nói cách khác, mức phá giá 1 điểm phần trăm hôm 7/5 sẽ không phải là lần cuối trong năm nay.
Cũng may là NHNN trong tuyên bố “điều chỉnh tăng” tỷ giá hôm 7/5 đã không còn đưa ra bất cứ một cam kết “cứng” về tỷ giá nào như trước nữa, chắc là để dọn đường cho những đợt phá giá sau này, nếu có.
------------------------------------
Bình luận thêm

Mấy tuần rồi chứng kiến các chuyên ra phát biểu về tỷ giá mới thấy hài. Hóa ra toàn phường nói dựa, gió chiều nào che chiều đó. Từ Nguyễn Trí Hiếu, Vũ Đình Ánh cho đến chuyên ra hang 2 như Cấn Văn Lực, Trương Văn Phước, chưa kể chóp bu khác của Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia. 
Có đồng chí nào rỗi, ngồi tìm lại các bài phát biểu trước đây của mấy chuyên ra này rồi so lại với phát biểu mấy hôm nay của chính mấy đồng chí đó mới thấy sự chuyển biến tâm tư ngoạn mục, theo kiểu diễn biến hòa bình. Đúng là tài thật, quá tài.
Có lẽ chỉ có mỗi mình tớ với cả…. Ngân hàng Nhà nước là không thấy bất ngờ với chuyện phá giá!

Thursday 7 May 2015

Cực chẳng đã khi vay từ quỹ dự trữ ngoại hối (Bài đăng trên VnExpress, 7/5/2015, tiêu đề do báo đặt lại)

http://kinhdoanh.vnexpress.net/tin-tuc/ebank/ngan-hang/cuc-chang-da-khi-vay-tu-quy-du-tru-ngoai-hoi-3209787.html

Trong phiên họp thường kỳ cuối tháng 4, Chính phủ giao Ngân hàng Nhà nước cùng Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch & Đầu tư nghiên cứu, đề xuất cơ chế cho ngân sách vay từ nguồn dự trữ ngoại hối nhằm bổ sung vốn đầu tư phát triển, đảm bảo an toàn tài chính, tiền tệ quốc gia. Ý tưởng này có thể xuất phát từ áp lực lên nguồn thu ngân sách do giá dầu thô giảm và việc cắt giảm thuế theo lộ trình thực hiện các hiệp định tự do thương mại. Trong khi đó, quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam được cho là đã đạt mức kỷ lục, trên 35 tỷ USD vào tháng 9 năm ngoái theo công bố của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước và hiện khoảng 36,7 tỷ USD theo dự báo của Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR).
Việc dùng dự trữ ngoại hối quốc gia để tài trợ cho chi tiêu ngân sách không hiếm trên thế giới, nhất là trong những hoàn cảnh ngặt nghèo, biến cố đột xuất như chiến tranh, khủng hoảng kinh tế… Đợt giá dầu tuột dốc kéo dài từ giữa năm ngoái đến nay, nhiều quốc gia như Ảrập Xêút, Libya, Oman, Iraq, Iran và kể cả Nga đã phải dốc quỹ dự trữ ngoại hối để bù đắp cho phần thiếu hụt ngân sách từ xuất khẩu dầu mỏ.
Động thái này cũng là việc cực chẳng đã với mọi chính phủ, bởi sử dụng dự trữ ngoại hối chỉ có thể kéo dài đến một giới hạn nhất định, trước khi các ngân hàng trung ương chỉ còn một vài lựa chọn chính sách. Cơ quan này có thể phá giá đồng nội tệ để giảm nhu cầu nhập khẩu đồng thời làm tăng xuất khẩu; hay bóp nghẹt nhu cầu ngoại tệ trong nước bằng các biện pháp hành chính để bảo vệ số dự trữ còn lại, bảo đảm khả năng chi trả các nghĩa vụ nợ, nhu cầu nhập khẩu và chi tiêu ngoại tệ thiết yếu, cấp bách khác.
Phá giá nội tệ hay bóp nghẹt nhu cầu ngoại tệ trong nước là tín hiệu xấu với giới đầu tư, có thể kích hoạt tình trạng chảy máu ngoại tệ, làm giá đồng nội tệ rơi tự do, kết cục là đẩy quốc gia vào khủng hoảng tiền tệ và tài chính.
Do đó, khi trích quỹ dự trữ ngoại hối để tài trợ ngân sách, chính phủ thông thường phải tiết giảm tối đa chi tiêu, mặt khác phải đa dạng hóa và nâng cao các nguồn thu hiện có và mới, nhưng cũng phải đảm bảo những nguồn thu này không bóp nghẹt các hoạt động kinh tế bình thường của quốc gia.
Nhìn lại trường hợp của Việt Nam, các số liệu báo cáo từ Ngân hàng Nhà nước hay các tổ chức quốc tế như IMF đều nhấn mạnh đến sự cải thiện quy mô dự trữ ngoại hối trong năm 2014 và cả năm nay. Theo số liệu IMF, chỉ tiêu này đã tăng từ 26 tỷ USD năm 2013 lên mức ước tính 38 tỷ USD năm 2014 và dự kiến sẽ vọt lên 48,8 tỷ USD trong năm nay.
du-tru-ngoai-hoi-JPG-4013-1430885731.jpg
Đơn vị: tỷ USD. Nguồn: IMF
Tuy vậy, đây là sự cải thiện về con số tuyệt đối. Khi so sánh dự trữ ngoại hối với giá trị nhập khẩu, cung tiền M2 và nợ ngắn hạn nước ngoài, tỷ lệ này của Việt Nam thấp hơn nhiều mức bình quân trong khu vực.
So sánh chỉ số dự trữ ngoại hối trong khu vực
Quốc gia
Số tháng nhập khẩu
% xuất khẩu
% tổng cung tiền
% nợ ngắn hạn nước ngoài
% GDP
Trung Quốc
20
159
22
597
42
Ấn Độ
6
62
19
283
16
Indonesia
6
48
32
229
11
Malaysia
7
52
33
407
43
Philippines
11
115
54
492
31
Singapore
6
48
68
-
92
Sri Lanka
4
48
29
70
11
Thái Lan
7
59
32
292
43
Bình quân
8
74
36
339
36
Việt Nam
2,6
25
17
331
23
Nguồn: IMF
Ngay cả chỉ tiêu thường được biết đến và viện dẫn ở Việt Nam là số tháng nhập khẩu mới đạt 2,6 tháng vào năm 2014, còn thấp hơn mức an toàn tối thiểu thường được nhắc đến là 3 tháng. Hay nếu sử dụng con số dự trữ ngoại hối 48,8 tỷ USD mà IMF ước tính cho Việt Nam trong năm nay thì mức dự trữ ngoại hối này vẫn chỉ tương đương với 3,1 tháng nhập khẩu, quá nhỏ bé so với các nước trong khu vực.
Nói cách khác, quỹ dự trữ ngoại hối của Việt Nam đã và sẽ còn ở mức thấp so với bình quân trong khu vực ít nhất đến hết năm nay, và nếu Chính phủ lại rút bớt ngoại tệ từ đó ra để chi tiêu, rủi ro sẽ tăng cao.
Hiện Ngân hàng Nhà nước thường viện dẫn số liệu dự trữ ngoại hối để làm cơ sở ổn định tỷ giá VND/USD, nếu một phần ngoại tệ được rút ra để tài trợ cho chi tiêu Chính phủ thì cơ sở cho sự ổn định này sẽ bị lung lay. Khi đó, nhà quản lý sẽ phải tính lại bài toán tỷ giá và mục tiêu không điều chỉnh quá 2% một năm như hiện nay.
Có ý kiến cho rằng phần ngoại tệ rút ra từ quỹ dự trữ ngoại hối chỉ để Chính phủ chi tiêu và sẽ hoàn lại, chứ không phải mất đi. Khoản này vẫn là một hạng mục tài sản của Ngân hàng Nhà nước như mọi khoản đầu tư từ nguồn quỹ dự trữ ngoại hối khác vào các sản phẩm tài chính trên thế giới, và vẫn được phản ánh trên bảng cân đối tài sản của Ngân hàng Nhà nước.
Song, lập luận này cần lưu ý đến tính thanh khoản của khoản cho vay. Điều khác biệt chủ yếu giữa các khoản đầu tư của Ngân hàng Nhà nước trên các thị trường tài chính quốc tế với khoản cho vay Chính phủ là các khoản đầu tư của Ngân hàng Nhà nước thường vào các tài sản có tính thanh khoản cao (trái phiếu Chính phủ, các loại giấy tờ có giá khác) nên khả năng thu hồi trong thời gian ngắn. Điều này sẽ đảm bảo quỹ dự trữ ngoại hối đúng nghĩa là quỹ dự trữ - luôn sẵn sàng cho lấy ra để sử dụng khi cần.
Trong khi đó, các khoản cho Chính phủ vay thường được dự trù có kỳ hạn nên sẽ có nhiều khả năng xảy ra “lệch pha” khi Ngân hàng Nhà nước cần thu hồi các khoản cho vay này cho các nhu cầu can thiệp khẩn cấp của mình nhưng Chính phủ không thể thu xếp được ngay nguồn để trả nợ. Trên khía cạnh này, quỹ dự trữ ngoại hối của Ngân hàng Nhà nước sẽ chỉ còn tác dụng trên danh nghĩa.
Tóm lại, việc sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối chỉ nên được coi là giải pháp cuối cùng. Ở bối cảnh này, Chính phủ cần chú ý tiết giảm chi tiêu từ ngân sách nhằm giải quyết những khó khăn trước khi nghĩ đến việc sử dụng quỹ dự trữ ngoại hối.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).