Monday, 5 April 2021

Hạn mức tín dụng để làm gì? (Bài đăng trên TBKTSG, 4/4/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/314996/han-muc-tin-dung-de-lam-gi.html

Hiện nay Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đang tiếp tục ban hành và phê duyệt hạn mức tăng trưởng tín dụng cho  từng ngân hàng và cả hệ thống ngân hàng trong từng quý và cả năm. Mục đích của việc này được cho là để quản lý rủi ro tín dụng, tuy dường như NHNN chưa bao giờ giải thích rõ bản chất cũng như động cơ của việc này.

Khi NHNN đặt ra một tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tối đa cho một ngân hàng nào đó ở mức nhỏ hơn so với (cùng kỳ) năm trước và/hoặc so với các ngân hàng khác trong hệ thống thì điều này có thể được hiểu rằng ngân hàng này đang có mức độ rủi ro cao hơn so với chính nó hoặc so với các đối thủ trong cùng hệ thống.

Sự rủi ro này có thể là kết quả của việc ngân hàng này cho vay quá nhiều so với vốn chủ sở hữu hoặc cho vay quá tập trung vào các lĩnh vực cho vay được cho là rủi ro cao như bất động sản, trái phiếu doanh nghiệp, cổ phiếu và... các dự án BTO!

Nhưng để hạn chế những hậu quả này thì NHNN không cần phải xiết lại hạn mức tăng trưởng tín dụng của từng ngân hàng. Cụ thể hơn, để hạn chế rủi ro có ít vốn mà cho vay quá nhiều thì NHNN chỉ cần yêu cầu và tăng cường thanh tra việc tuân thủ của các ngân hàng thương mại về tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu trên tổng tài sản có. Tỷ lệ này đã được quy định trong nhiều thông tư như Thông tư 41/2016, rồi ngay trong bản thân các quy định về vốn an toàn tối thiểu của Basel mà các ngân hàng đã tự nguyện đăng ký tuân thủ (theo Basel II) và đã được NHNN công nhận.

Còn để hạn chế các ngân hàng cho vay quá nhiều, quá tập trung vào các lĩnh vực rủi ro như trái phiếu doanh nghiệp hay bất động sản thì đã có các quy định liên quan trong Thông tư 22/2019 quy định về các giới hạn, tỷ lệ đảm bảo an toàn trong hoạt động của ngân hàng thương mại. Ví dụ, về cho vay để đầu tư, kinh doanh trái phiếu doanh nghiệp, Thông tư 22 quy định một loạt điều kiện như chỉ được cấp tín dụng với thời hạn đến một năm, có tỷ lệ nợ xấu dưới 3%, không được cấp tín dụng cho khách hàng trong một số trường hợp quy định cụ thể, và tổng mức dư nợ cho vay để đầu tư, kinh doanh trái phiếu doanh nghiệp không được quá 5% vốn điều lệ, vốn được cấp v.v...

Ngoài ra, Thông tư 22 cũng quy định các hệ số rủi ro cho từng hạng mục tài sản. Tài sản được cho là rủi ro càng cao thì hệ số rủi ro này cũng càng cao, làm cho ngân hàng thương mại càng phải có thêm nhiều vốn chủ sở hữu nếu vẫn muốn cho vay cùng một lượng tín dụng vào những lĩnh vực rủi ro này. Ví dụ như bất động sản, hệ số rủi ro áp dụng cho tài sản này là 200%, so với mức 100% dành cho tài sản là cổ phần.

Cũng có thể có lo ngại rằng nếu không quy định tăng trưởng tín dụng cho từng ngân hàng thì sẽ dẫn đến chạy đua lãi suất, đẩy mặt bằng lãi suất lên cao, gây khó cho nền kinh tế. Tuy nhiên, mặt bằng lãi suất trong cả hệ thống và nền kinh tế có tăng lên hay không lại phụ thuộc cuối cùng vào chính sách tiền tệ của NHNN. Nếu NHNN sẵn sàng đáp ứng thanh khoản của hệ thống và nền kinh tế thì việc một số ngân hàng nào đó tăng lãi suất sẽ không gây ra áp lực đáng kể làm tăng lãi suất cả hệ thống. Cũng cần lưu ý rằng NHNN đã từng áp dụng trần lãi suất. Không cần bàn đến việc công cụ này có lợi hay hại, hiệu quả hay không, sự từng tồn tại của công cụ này càng cho thấy nếu muốn chặn cuộc đua lãi suất thì sẽ có nhiều công cụ khác mà không cần phải áp đặt hạn mức tăng trưởng tín dụng.

NHNN cũng quy định tỷ lệ tăng trưởng tín dụng tối đa cho cả hệ thống ngân hàng trong từng thời kỳ. Khi tỷ lệ tăng trưởng tín dụng nhỏ hơn so với cùng kỳ thì mục đích có thể là vì muốn điều chỉnh tốc độ tăng trưởng tín dụng theo sát với tăng trưởng kinh tế để không gây ra những vấn đề như tăng trưởng quá nóng, lạm phát đang có xu hướng tăng lên.

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng lạm phát đến từ tăng trưởng tín dụng cuối cùng sẽ phụ thuộc vào lập trường chính sách tiền tệ của NHNN. Nếu NHNN xiết chặt hơn cung tiền thì NHNN sẽ không cần phải xiết chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng của một hay nhiều ngân hàng thương mại, bởi yếu tố quyết định mức tăng trưởng tín dụng trong nền kinh tế chính là lượng tiền bơm thêm ra nền kinh tế từ NHNN. Các ngân hàng thương mại chỉ là kênh trung chuyển lượng tiền bơm ra này vào nền kinh tế chứ không phải là nơi tạo ra tiền để mà lo ngại sẽ làm tăng lạm phát nếu không khống chế được việc cho vay của họ.  

Tóm lại, NHNN đã ban hành, thực thi và có trong tay đầy đủ các công cụ để quản lý rủi ro trong hệ thống ngân hàng liên quan đến việc cấp tín dụng của các ngân hàng thương mại cho nền kinh tế. Những công cụ này hoàn toàn có thể thay thế được “công cụ” hạn mức tăng trưởng tín dụng cho ngân hàng/hệ thống ngân hàng mà NHNN đang thực hiện. Việc cần làm chỉ là thanh tra, kiểm tra, chế tài nghiêm ngặt để buộc các ngân hàng thương mại phải nghiêm túc thực thi các quy định an toàn cho vay này.

Nếu vẫn tiếp tục áp dụng hạn mức tăng trưởng tín dụng thì các ngân hàng thương mại lại bị thêm một biện pháp quản lý hành chính kém minh bạch, mang tính trói buộc mà vẫn không làm cho hoạt động của hệ thống ngân hàng trở nên an toàn hơn.  

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).