Friday 2 April 2021

Sốt đất – Chung quy chỉ tại... tiền nhiều! (Bài đăng trên CafeF, 2/4/2021, bản gốc)

https://cafef.vn/sot-dat-chung-quy-chi-tai-tien-nhieu-20210402094327019.chn

Sốt đất đang diễn ra hầu như trên khắp các địa phương, từ Bắc vào Nam. Đã có nhiều lý do được đưa ra để cố gắng giải thích cho cơn sốt đất lần này – cách cơn sốt gần đây nhất đến cả chục năm.

Một số lý do nổi bật là chính sách tiền tệ nới lỏng, tâm lý thị trường, thông tin quy hoạch và hạ tầng, sự thổi giá của môi giới bất động sản, và thậm chí là tâm lý bầy đàn v.v...

Tạm gác lại lý do về tiền tệ, các lý do nêu trên thực ra thì ở đâu và năm nào cũng có nên có quy cho chúng là tội đồ của cơn sốt hiện nay thì e rằng là hơi khiên cưỡng, dù không thể phủ nhận là chúng cũng hợp sức góp phần tạo ra cơn sốt này.

Quay lại với lý do tiền tệ. Giống như nhiều nước trên thế giới trong cuộc chiến với Covid-19, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã khá mạnh tay nới lỏng chính sách tiền tệ của mình, hạ lãi suất điều hành tới 3 lần trong năm 2020, đồng thời tiến hành các biện pháp hỗ trợ khác như khoanh nợ, giãn nợ, giữ nguyên phân loại nợ... để không làm ảnh hưởng đến dòng chảy tín dụng vào nền kinh tế. Kết quả là, như đồ thị dưới đây cho thấy, lãi suất hiện nay ở Việt Nam là thấp nhất trong hàng chục năm qua.

https://cafef.vn/sot-dat-chung-quy-chi-tai-tien-nhieu-20210402094327019.chnLãi suất thấp hơn và thấp nhất, điều kiện vay cũng được châm trước, nới lỏng đáng kể nên dễ hiểu là đã và sẽ có nhiều người tiếp cận được nguồn vốn cho vay “hào phóng” từ hệ thống ngân hàng. Xin minh họa chuyện này bằng một trường hợp mà tôi được chứng kiến. Một ông chủ trang trại chăn nuôi được một ngân hàng giải ngân cho vay “chăn nuôi” đến hàng chục tỷ đồng, mặc dù người này vẫn đang ăn nên làm ra, không hề thiếu vốn và cũng chỉ đang duy trì quy mô như cũ, thậm chí còn thừa tiền để mua một vài bất động sản từ năm trước sang đến đầu năm nay.

Vì chăn nuôi là một trong những lĩnh vực ưu tiên nên khoản vay hàng chục tỷ đồng này chỉ có lãi suất đâu như 4,5%/năm. Đáng nói hơn là ông chủ này không dùng số tiền vay ngân hàng vào mở rộng đàn hay đầu tư vào cơ sở vật chất của trang trại (vì không cần) mà đem một phần cho vay lại một doanh nghiệp thân hữu với lãi suất 12%/năm và phần khác thì tiếp tục đổ vào bất động sản. 

Qua ví dụ trên để thấy sẽ có nhiều trường hợp tương tự, dù có thể lãi suất khoản vay có thể không được ưu ái đến độ như vậy. Nói cách khác, với một mặt bằng lãi suất thấp kỷ lục trong nhiều năm kèm với điều kiện ngân hàng cho vay dễ dãi, xét duyệt phần lớn chỉ là hình thức, một lượng tiền lớn hơn nhiều so với sức hấp thụ của nền kinh tế thực (GDP tăng trưởng quanh quẩn 3-4% năm qua và quý I năm nay) đã và sẽ còn tiếp tục chảy vào những lãnh địa vốn luôn là những thỏi nam châm hút các khoản tiền... thừa! Những lãnh địa đó không gì khác ngoài chứng khoán và bất động sản. Điều này thì đã và đang được chứng minh qua những con số “hoành tráng” liên quan đến 2 thị trường này thời gian qua, và cả thời kỳ tăng trưởng nóng và sốt đất chục năm về trước (2008-2011).

Khi tiền thừa, tràn ngập nền kinh tế thì cả những tài sản phòng ngừa rủi ro khác như vàng và USD cũng có cơ hội lớn để tăng giá, bởi tiền nhiều sẽ thổi bùng lạm phát và kỳ vọng lạm phát, góp thêm vào tâm lý xa lánh nội tệ. Và điều này hiện cũng đang diễn ra khá đúng với kịch bản, dù các cơ quan chức năng luôn nhấn mạnh có chủ ý rằng lạm phát quý 1 năm nay là thấp nhất trong nhiều năm!

Như vậy, không có gì là quá khi nói tội đồ chính của cơn sốt đất hiện nay (và nói chung là các cơn sốt đất, sốt chứng khoán...) chính là tiền vừa nhiều vừa rẻ vừa dễ dãi.

Trước các cơn sốt này và những rủi ro nó mang lại cho nền kinh tế, cũng như những điều “mắt thấy tai nghe” như nói ở trên, tôi đồng ý với luồng ý kiến cho rằng  lãi suất hiện không phải là nút thắt của nền kinh tế nữa, và NHNN không nên tìm cách hạ thêm lãi suất chỉ để đáp ứng một một yêu cầu rất chung chung, mơ hồ, thiếu căn cứ là lãi suất Việt Nam hiện vẫn còn cao, cần hạ xuống nữa để hỗ trợ doanh nghiệp và thúc đẩy tăng trưởng...

Mà chắc cũng không cần phải vận động hay kêu gọi NHNN thay đổi cách nhìn/lập trường về lãi suất như hiện nay nữa bởi áp lực lạm phát hầu như chắc chắn sẽ tăng mạnh từ các yếu tố nội tại cũng như từ nước ngoài trong phần còn lại của năm và sang đến năm sau. Lúc đó, dù không muốn nâng lãi suất thì NHNN cũng không còn công cụ hữu ích nào, ngoài những công cụ hành chính, nếu có, nhưng phần lớn lại không thuộc phạm vi kiểm soát của NHNN, và trên thực tế cũng chẳng có mấy tác dụng trong việc hạ nhiệt giá cả, giảm lạm phát.

Tất nhiên là ngoài công cụ vĩ mô là lãi suất điều hành để kiểm soát các thị trường mang tính đầu cơ như bất động sản và chứng khoán, NHNN vẫn còn các công cụ hành chính khác, nếu muốn, chẳng hạn như khống chế cho vay để đầu tư vào bất động sản theo kiểu như nếu vay mua trên một căn nhà thì khoản cho vay tối đa sẽ giảm dần, và tỷ lệ với thu nhập khai báo của người vay. Tuy nhiên, để làm được điều này thì cần phải có sự tích hợp, liên thông về dữ liệu cho vay bất động sản và thu nhập giữa các ngân hàng để theo dõi hạn mức cho vay từng cá nhân, doanh nghiệp – là điều mà chắc còn mất nhiều năm nữa mới có thể làm được, nếu muốn.   

Tương tự như vậy là các chính sách thuế khóa liên quan đến bất động sản. Tuy hữu dụng ở một số nước trong việc chống sốt nhà đất (Trung Quốc hoặc Singapore) nhưng vì một số lý do nên các giải pháp này chắc chỉ có thể có mặt ở Việt Nam sau nhiều năm nữa, với giả thiết là các bên có liên quan đều không muốn có sốt đất.

Tóm lại, “tiền đồ” của cơn sốt đất hiện nay chắc chắn sẽ phụ thuộc vào thời điểm và mức độ đảo chiều chính sách tiền tệ của NHNN, được dự báo là sẽ không cách quá xa hiện tại (nhưng với mức độ không quá mạnh và quá nhanh, cùng với cách mà NHNN hạ lãi suất trong năm 2020). 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).