Sunday 11 April 2021

Rốt cuộc, tiền mã hóa có phải là tiền? (Bài đăng trên TBKTSG, 11/4/2021)

https://www.thesaigontimes.vn/315217/rot-cuoc-tien-ma-hoa-co-phai-la-tien.html

Bitcoin, Litecoin, Ethereum và những thứ tương tự được coi là một loại tiền, với cái đuôi là ‘mã hóa’ hoặc thậm chí là ‘ảo’. Vậy tại sao chúng lại được coi là tiền?

Lấy ví dụ Bitcoin, nó được thiết kế để thực hiện chức năng đúng như tiêu đề của bài viết: “Bitcoin: An Electronic Peer to Peer Cash System” (tạm dịch: ‘Bitcoin: Một Hệ thống Tiền Đồng đẳng Điện tử’) xuất hiện trên mạng bởi người sáng lập dưới cái tên Satoshi Nakamoto ngày 31/10/2008. Theo đó, Bitcoin có thể được dùng như một đồng tiền để thanh toán trực tiếp cho một chủ thể khác trong một giao dịch thương mại nào đó. Ví dụ “kinh điển” về việc thanh toán dùng Bitcoin vẫn được trích dẫn cho đến nay là vụ ông Laszlo Hanyecz hồi năm 2010 trả 10.000 Bitcoin để mua 2 cái bánh pizza, tương đương với số tiền khoảng 600 triệu đô la theo giá Bitcoin hiện tại.

Bitcoin cũng được coi là “vật” có/lưu trữ giá trị, dù nó không được coi là có giá trị nội tại bởi nó không phải là thực thể có giá trị như vàng, và cũng không được bảo đảm giá trị bằng bất cứ tài sản hay bởi một chính phủ nào như đối với tiền pháp định. Nhưng dù giá Bitcoin trồi sụt mạnh hàng ngày, giá của nó chưa bao giờ về 0. Hơn thế, Bitcoin được cho rằng sẽ không bao giờ có giá giảm xuống 0 (vô giá trị), do lúc nào cũng sẽ có hơn một người tin rằng Bitcoin có giá trị lớn hơn 0 và, do đó, niềm tin này tạo ra giá trị cho bitcoin, hệt như cách nhiều người tin rằng vàng có giá trị nội tại nên vàng trở nên có giá trị lớn hơn 0.  

Với các chức năng là công cụ thanh toán, lưu trữ giá trị, đồng thời cũng là một đơn vị tính toán nên rõ ràng các loại tiền ảo hay tiền mã hóa như Bitcoin đáp ứng được các điều kiện để được gọi là tiền tệ. Và trong lúc vẫn còn rất nhiều người, tổ chức và Chính phủ vẫn hoài nghi hoặc không công nhận điều này, PayPal hôm 30/3 đã công bố một dịch vụ mới gọi là ‘Checkout with Crypto’ (tạm dịch: Chuyển đến bước thanh toán bằng tiền mật mã) cho phép khách hàng lựa chọn trong số Bitcoin, Litecoin, Ethereum hoặc Bitcoin Cash như một phương tiện thanh toán để mua hàng hóa từ hàng triệu nhà bán lẻ trên thế giới. Một khi việc mua đã được xác nhận, PayPal sẽ chuyển số tiền mã hóa này sang tiền pháp định hộ cho người mua, và người mua sẽ nhận được hai hóa đơn, gồm hóa đơn mua hàng và hóa đơn ghi lại việc bán tiền mã hóa lấy tiền pháp định. Như vậy, cùng với việc Elon Musk tuyên bố hãng Tesla sẽ chấp nhận Bitcoin từ khách hàng mua ô tô, sự cho phép khách hàng thanh toán bằng tiền mã hóa của PayPal được tin rằng sẽ mở rộng hơn nữa sự sử dụng và phổ biến của Bitcoin.

Tuy nhiên, vấn đề thực sự với Bitcoin là giá của nó đã tăng đến hơn 700% trong một năm qua (và tương tự ít nhiều như vậy là nhiều loại tiền mã hóa khác). Nên dù Bitcoin có được chấp nhận rộng rãi như một công cụ thanh toán thì câu hỏi liên quan sẽ là, liệu Bitcoin sẽ thực sự trở thành một công cụ/phương tiện thanh toán phổ biến?

Để trả lời câu hỏi trên, cần trả lời câu hỏi khác là, tại sao người mua ô tô Tesla hoặc mua hàng trên PayPal lại muốn thanh toán bằng Bitcoin thay vì tiền pháp định như USD, euro hay yen...? Bảo là vì bảo mật hay vì tính tiện lợi thì đều không đúng, ít nhất với những giao dịch kiểu như vậy. Vậy chỉ có thể giải thích được rằng Tesla hay PayPal đang đầu tư, nắm giữ Bitcoin, hoặc có lợi ích liên quan đến sự lên giá của Bitcoin nên muốn quảng bá Bitcoin để nó tiếp tục tăng giá hơn nữa bằng “thiện ý” là tăng tính tiện lợi cho người mua hàng hóa thông qua việc cho phép họ được thanh toán bằng Bitcoin. Chắc nhiều tổ chức khác như ngân hàng đã và sẽ chấp nhận Bitcoin cũng có cùng mục đích như vậy, dù nó không bao giờ được nói ra.

Nhưng nếu người mua cũng tin rằng Bitcoin sẽ tiếp tục lên giá, nhất là thỉnh thoảng lại có một dự báo của các tổ chức khả tín rằng Bitcoin sẽ còn tăng giá đến cả trăm ngàn, thậm chí triệu đô la... thì đương nhiên sẽ chẳng có ai dại gì dùng Bitcoin để thanh toán đơn hàng của mình. Ngay vào hôm 30/3 là ngày PayPal công bố việc chấp nhận tiền mã hóa, giá của Bitcoin bằng đô la Mỹ đã tăng 3,8%, đồng nghĩa với thiệt hại cho khách thanh toán ngày hôm đó bằng Bitcoin từng đó đô la. Ngược lại, khách hàng sẽ cố gắng mua hàng hóa bằng tiền pháp định mà họ tin rằng sẽ suy yếu vì lạm phát, chẳng hạn như với trường hợp đô la Mỹ với mức lạm phát mục tiêu mà Fed đặt ra là trên 2%/năm trong các năm tới. 

Như vậy, dù tiền mã hóa đúng là tiền nhưng nó sẽ không được sử dụng nhiều với tư cách là công cụ thanh toán, ít nhất cho đến khi có dấu hiệu rõ ràng rằng tiền mã hóa đang xuống dốc hoặc sớm bị đặt ra ngoài vòng pháp luật như ở Ấn Độ, nơi đang dự thảo luật cấm triệt để, thậm chí phạt tù người sở hữu và sử dụng Bitcoin. Thay vào đó, tiền mã hóa có lẽ chủ yếu vẫn sẽ chỉ là một tài sản đầu tư. 

Điều trên có liên quan đôi chút đến Việt Nam. Bitcoin hay các loại tiền mã hóa, tiền ảo khác bị coi là tài sản ảo nên không được pháp luật thừa nhận ở Việt Nam. Giao dịch bằng tiền ảo cũng bị cấm. Nhưng trên thực tế như hiện nay của Bitcoin, và cùng với sự (sắp) ra đời của nhiều loại tiền hợp pháp, được công nhận khác trên thế giới gồm stablecoin và tiền số ngân hàng trung ương, Việt Nam cần thiết phải sớm có một sự thay đổi về quan điểm, chuyển sang công nhận ít nhất là một số loại tiền mã hóa/ảo là tiền/ngoại tệ (tức là không đánh đồng mọi loại như nhau và...  không công nhận!).

Đồng thời, như đã nêu, vai trò của tiền mã hóa/ảo hiện chủ yếu là tài sản đầu tư, cộng thêm với việc khó hoặc không thể theo dõi, phát hiện các giao dịch bằng tiền mã hóa nên việc cấm giao dịch bằng các đồng tiền này sẽ gần tương đương với việc vụt gậy vào khoảng không. Nên nếu vì một lý do nào đó để e ngại các giao dịch bằng tiền mã hóa thì tốt nhất là xác định rõ tiêu chí để chế tài bằng pháp luật mọi hành động phổ biến, sở hữu, giao dịch các loại tiền gọi là mã hóa, tiền ảo nhưng thực chất có tính đa cấp, lừa đảo mà thôi. 

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).