Thursday, 29 April 2021

Nghịch lý đô la hóa và kinh tế tiền mặt đang tăng lên (Bài đăng trên báo Đầu tư, 29/4/2021)

https://baodautu.vn/nghich-ly-do-la-hoa-va-kinh-te-tien-mat-dang-tang-len-d141783.html 

Quyết định 2589/QĐ-NHNN ngày 17/12/2015 của Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã hạ lãi suất tiền gửi USD của cả tổ chức và cá nhân xuống còn 0%/năm. Quyết định này được cho là một trong những công cụ nặng ký trong cuộc chiến của NHNN giảm và triệt tận gốc nạn đô la hóa ở Việt Nam. Vài năm trôi qua, nay cùng nhìn lại xem tình trạng đô la hóa trong nền kinh tế có được cải thiện như kỳ vọng hay không.

Trước tiên, để đo lường tình trạng đô la hóa trong quá khứ và hiện tại, cần hiểu rõ khái niệm đô la hóa. Đây là thuật ngữ chỉ tình trạng USD hay ngoại tệ thay thế một phần hay toàn bộ bản tệ của một nền kinh tế. Lưu ý là loại ngoại tệ gây ra tình trạng đô la hóa không nhất thiết chỉ là USD như cái tên gọi của nó.

Đo lường chính xác mức độ đô la hóa – mức độ mà người dân sở tại nắm giữ trái phiếu nước ngoài, tiền gửi ngân hàng bằng ngoại tệ, và tiền mặt ngoại tệ gồm tiền giấy và tiền xu – là điều khó khăn. Thay vào đó, một phương pháp ước tính tình trạng đô la hóa do IMF đề xuất đã được sử dụng rộng rãi, đó là dùng tỷ lệ tiền gửi bằng ngoại tệ trong hệ thống ngân hàng nội địa.

NHNN công bố định kỳ trên website số liệu hàng tháng về tổng phương tiện thanh toán gồm các cấu phần là tiền gửi của các tổ chức kinh tế và tiền gửi tiết kiệm của dân cư bằng tiền đồng, mới nhất là đến tháng 2/2021. Đồng thời, NHNN cũng công bố tỷ lệ “tiền trong lưu thông” (tức là tiền mặt, nằm ngoài hệ thống ngân hàng) trong tổng phương tiện thanh toán hàng tháng. Ngoài ra, theo công thức tính tổng phương tiện thanh toán áp dụng ở Việt Nam:

Tổng phương tiện thanh toán = Tiền trong lưu thông + Tiền gửi tổ chức và dân cư bằng tiền đồng + Tiền gửi tổ chức và dân cư bằng ngoại tệ

Do đó, tiền gửi bằng ngoại tệ của tổ chức và dân cư được tính bằng cách lấy tổng phương tiện thanh toán trừ đi tiền trong lưu thông và tiền gửi bằng VND của tổ chức và dân cư/cá nhân.

Dựa vào các dữ liệu trên, ta có bảng sau:

Theo đó, tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ đã có xu hướng tăng lên từ năm 2015, thời điểm ban hành Quyết định 2589 không chế trần lãi vay USD 0%. Tỷ trọng này đạt mức cao nhất là 6,2% vào cuối năm 2020 và duy trì sang đến tháng 2/2021. Nếu tính tỷ trọng tiền gửi bằng ngoại tệ trong tổng tiền gửi ngân hàng theo phương pháp xác định mức độ đô la hóa của IMF thì kết quả sẽ còn lớn hơn nữa, bởi tổng tiền gửi ngân hàng nhỏ hơn tổng phương tiện thanh toán.

Nói cách khác, tình trạng đô la hóa đã có xu hướng tăng trở lại kể cả sau khi lãi suất tiền gửi USD bị khống chế ở mức 0%.

Một số trong những lý do cho tình trạng này có thể là: (i) Tuy lãi suất tiền gửi USD là 0% trên danh nghĩa, nhưng thực tế người gửi vẫn có một số cách để làm cho lợi tức thực thu được từ khoản tiền gửi USD này lớn hơn 0%, làm cho việc nắm giữ USD vẫn có ý nghĩa, nhất là khi giá USD được kỳ vọng tăng; (ii) ngân hàng vẫn trả lãi dương cho các khoản tiền gửi bằng ngoại tệ khác ngoài USD, nên người gửi có thể chọn ngoại tệ khác để gửi tiết kiệm vào ngân hàng thay vì USD, làm cho con số thống kê về tiền gửi ngoại tệ không giảm đi như kỳ vọng; và (iii) tâm lý phòng ngừa rủi ro vĩ mô thông qua nắm giữ ngoại tệ của người dân và doanh nghiệp vẫn còn đó, đặc biệt khi tổng phương tiện thanh toán (cung tiền) tăng mạnh như năm 2020 và đến đầu năm 2021 trong khi tăng trưởng GDP yếu hơn trước tạo rủi ro lạm phát cao.

Chuyển sang vấn đề thứ hai là kinh tế tiền mặt. Cũng bảng trên cho thấy lượng tiền mặt nắm giữ trong dân và doanh nghiệp có xu hướng giảm nhẹ dần từ năm 2017 xuống 11,1% của tổng phương tiện thanh toán vào cuối năm 2020 nhưng lại đột ngột tăng mạnh lên vào các tháng đầu năm 2021. Như vậy, có thể  nói người dân và/hoặc doanh nghiệp đột ngột trở nên ưa thích nắm giữ tiền mặt hơn là gửi vào ngân hàng.

Ứng với sự tăng lên của tiền mặt này là sự sụt giảm mạnh tiền gửi bằng VND của các tổ chức kinh tế và sự tăng mạnh của tiền gửi bằng VND của dân cư. Cụ thể, doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế đã rút vốn mạnh khỏi hệ thống ngân hàng tính đến cuối tháng 2/2021 so với cuối năm 2020 (giảm gần 430 nghìn tỷ đồng) để chuyển một phần thành tiền mặt tăng lên (tăng gần 150 nghìn tỷ đồng so với cuối tháng 12/2020) và một phần khác thành tiền gửi cá nhân/dân cư (tăng gần 390 nghìn tỷ đồng).

Trong khi khó có thể tìm được lý do chính xác cho việc rút vốn khỏi hệ thống ngân hàng của các tổ chức kinh tế, nhưng liệu điều này có liên quan đến cơn sốt chứng khoán và bất động sản hiện nay, đã xui khiến doanh nghiệp rút bớt vốn ra để kinh doanh chứng khoán và bất động sản để rồi doanh thu/lợi nhuận thì được phân bổ cho cá nhân (cổ đông, đối tác...) và giữ dưới dạng tiền mặt để tiếp tục quay vòng kinh doanh (mà không gửi vào ngân hàng, dù chỉ là tạm thời, với lý do như nói ở phần cuối bài)?

Trước thực trạng đô la hóa và tiền mặt đang tăng lên, NHNN cần xem xét sửa đổi và tốt nhất là xóa bỏ quy định trần lãi suất tiền gửi USD, bởi như đã nói, dù có trần 0% thì người dân và doanh nghiệp vẫn gửi USD và nhất là ngoại tệ khác. Hơn nữa, chỉ quy định trần tiền gửi USD 0% mà không quy định trần lãi suất cho các ngoại tệ khác thì không khác gì coi đô la hóa chỉ liên quan đến USD chứ không phải cả các ngoại tệ khác, như nói ở đầu bài. Giải pháp hiệu quả và căn cơ nhất vẫn phải là làm cho lòng tin vào tiền đồng liên tục cải thiện để người dân và doanh nghiệp không còn nhu cầu tích trữ ngoại tệ (gồm USD) và khi cần để thanh toán cho các nhu cầu chính đáng thì có thể dễ dàng mua từ ngân hàng.

Về hiện tượng tiền mặt trong lưu thông đang tăng lên, nếu điều này kéo dài trong các quý tới thì đây là một chỉ báo không mấy tốt lành, nhất là khi xét đến sự phổ cập ngày càng rộng rãi của các phương tiện thanh toán phi tiền mặt. Nghịch lý này có khả năng liên quan đến chuyện trốn thuế và/hoặc lo ngại về tính riêng tư và bảo mật sẽ không được đảm bảo bởi quy định mới đây của Bộ Tài chính buộc các ngân hàng phải chia sẻ dữ liệu về tài khoản và các giao dịch của người gửi tiền. Vì quy định này đã bị phản đối rộng rãi nên có lẽ Bộ Tài chính cũng cần tiếp thu để sửa đổi cho phù hợp với thông lệ quốc tế.  


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).