Tuesday, 27 April 2021

Không cần lập Sở Giao dịch vàng Quốc gia (Bài đăng trên CafeF, 27/4/2021, bản gốc)

https://cafef.vn/ts-phan-minh-ngoc-khong-can-lap-so-giao-dich-vang-quoc-gia-20210427071057621.chn 

Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam mới đây nhắc lại các kiến nghị nới lỏng chính sách đối với hoạt động kinh doanh vàng. Trong số 4 kiến nghị chính đưa ra, có kiến nghị hoàn toàn hợp lý nhưng cũng có kiến nghị không.

Cụ thể, kiến nghị thứ nhất, đưa ngành sản xuất vàng trang sức, mỹ nghệ ra khỏi danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện; cấp giấy phép nhập khẩu vàng nguyên liệu cho doanh nghiệp để có đủ nguyên liệu để sản xuất nhằm thu hẹp chênh lệch giữa giá vàng trong nước với quốc tế.

Việc đưa sản xuất vàng trang sức khoải danh mục ngành nghề kinh doanh có điều kiện là cần thiết. Bởi, xét tiêu chí ngành kinh doanh có điều kiện vì các lý do như quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, và sức khỏe cộng đồng... thì ngành sản xuất vàng trang sức hoàn toàn không liên quan đến những lý do này.

Về bản chất, sản xuất vàng trang sức cũng chỉ như sản xuất hàng hóa tiêu dùng, trang trí thông thường. Bản thân ngành sản xuất vàng trang sức cũng không có tên trong danh mục các ngành nghề kinh doanh có điều kiện trong phụ lục ban hành kèm theo Luật Đầu tư năm 2020 có hiệu lực từ 1/1/2021.

Một khi đã được loại ra khỏi danh mục kinh doanh có điều kiện thì việc cấp phép hoặc để doanh nghiệp tự do nhập khẩu vàng nguyên liệu là điều cần thiết hoặc là đương nhiên.

Kiến nghị thứ hai, nhiều quy định tại Nghị định 24/2012/NĐ-CP đã không còn phù hợp trong bối cảnh hiện tại, vì vậy cần sửa đổi theo hướng "cởi trói" cho doanh nghiệp.

Kiến nghị trên là hợp lý, với minh chứng chính là việc loại ngành sản xuất vàng trang sức khỏi danh mục kinh doanh có điều kiện, và cho phép doanh nghiệp nhập khẩu vàng nguyên liệu. Ngoài ra, một số nội dung trong các kiến nghị dưới đây là hợp lý nên (nếu chấp nhận thì) việc sửa đổi văn bản luật liên quan là tất yếu.

Kiến nghị thứ ba, bỏ quy định Ngân hàng Nhà nước (NHNN) độc quyền sản xuất vàng miếng, không sử dụng một loại vàng miếng SJC làm thương hiệu độc quyền. Việc cấp phép cho một số doanh nghiệp đủ điều kiện để sản xuất vàng miếng sẽ giúp tạo ra sự cạnh tranh công bằng, bình đẳng của vàng miếng trên thị trường, tạo lợi thế cho người dân khi mua vàng.

Kiến nghị trên là hợp lý bởi căn cứ pháp lý cũng như ý nghĩa của việc NHNN độc quyền sản xuất vàng miếng là không rõ ràng, thiếu tính thuyết phục. Và hiệu quả của việc này thể hiện cho đến nay cũng không thuyết phục, bởi trên thực tế giá vàng (miếng, độc quyền) vẫn giao động mạnh thậm chí hàng giờ và chênh lệch ngày càng lớn so với giá vàng thế giới (có lúc lên đến hơn 8 triệu đồng/lượng từ mức vài trăm nghìn đồng/lượng cách đây chục năm). Lưu ý rằng ổn định giá vàng trong nước và chênh lệch của giá vàng trong nước với thế giới chính là một lý do hàng đầu cho việc ban hành Nghị định 24 nhằm ổn định thị trường vàng trong nước.

Kiến nghị thứ tư, cho phép thành lập Sở Giao dịch vàng quốc gia nhằm tạo ra sự liên thông của giá vàng trong nước với giá vàng quốc tế. Điều này sẽ giúp loại bỏ những sàn vàng chui hoạt động bất hợp pháp, tăng huy động vàng trong dân, giảm thiểu giao dịch bằng tiền mặt và chống thất thu thuế của Nhà nước.

Đa phần kiến nghị này là không hợp lý và/hoặc không cần thiết. Nếu chỉ để nhằm tạo sự liên thông của giá vàng trong nước với giá vàng quốc tế thì việc cho phép nhập khẩu vàng nguyên liệu, vàng miếng, đi đôi với việc xóa bỏ độc quyền sản xuất vàng miếng như trong kiến nghị thứ ba nêu trên là đủ để giá vàng  miếng và vàng trang sức trong nước có tính cạnh tranh cao và hoàn toàn liên thông với giá vàng thế giới.

Việc ra đời và tồn tại những sàn vàng chui có một phần là kết quả của việc nhà nước độc quyền sản xuất vàng miếng và không cho phép nhập khẩu vàng nguyên liệu, vàng miếng. Nếu xóa bỏ những quy định này thì sự tồn tại của sàn vàng chui sẽ tự khắc thu hẹp lại và chấm dứt, giống như việc nhập vàng lậu.

Ngoài ra, sự ra đời và tồn tại của các sàn vàng chui là bất hợp pháp vì... không xin phép. Nên biện pháp xử lý phải là như xử lý với các hoạt động sản xuất kinh doanh không phép, chứ không phải, về logic, lại thành lập một cái sàn chính thức/quốc gia với các mục đích và lợi ích không rõ. Cũng không có gì khẳng định rằng khi lập sàn quốc gia rồi thì các sàn chui khác sẽ tự khắc đóng cửa. Lập luận ngược lại, nếu sau khi cho lập sàn quốc gia rồi mà có một sàn tư nhân nào đó xin phép thành lập để cạnh tranh với sàn quốc gia thì có cấp phép hay lại cấm? Nên nhớ rằng ở các nước, sàn giao dịch vàng, nếu có, chủ yếu là sàn tư nhân chứ không phải là sàn quốc gia, ví dụ như ở Singapore (xem ở đây: https://sgpmx.com). Và cũng cần nhớ rằng trên thế giới hiện tại chỉ có một số ít sàn giao dịch vàng, chứ không phải là nước nào cũng có sàn giao dịch vàng (xem ở đây: https://www.gold.org/what-we-do/gold-market-structure/global-gold-market).

Ngay cả những nước có nhu cầu nhập khẩu, kinh doanh vàng lớn trên thế giới như Ấn Độ mà đến thời điểm nay cũng vẫn chỉ mới đang có kế hoạch thành lập sàn giao dịch vàng (xem ở đây: https://www.indiatoday.in/business/budget-2021/story/bullion-experts-welcome-gold-exchange-in-india-1764945-2021-02-01#:~:text=In%202020%2C%20the%20government%20notified,changer%20for%20India's%20gold%20economy.)                 

Việc thành lập sàn vàng quốc gia không liên quan gì đến việc huy động vàng trong dân, bởi sàn vàng chỉ là nơi người dân và tổ chức thực hiện cả mua lẫn bán vàng cho nhau. Vàng lúc đó sẽ chỉ trao tay từ người này sang người kia, và ai (kể cả Nhà nước) muốn “huy động” vàng của dân thì phải có tiền để “huy động”, chứ bản thân cái sàn vàng không tự “huy động” được vàng trong dân. Nói ngược lại, nếu có tiền và muốn “huy động” vàng trong dân thì chẳng cần đến sàn vàng mà chỉ cần niêm yết mua công khai như cách mà các ngân hàng trước đây mua vàng của dân thì tự khắc sẽ “huy động” được và tùy ý.

Thành lập sàn vàng cũng không nhất thiết làm giảm thiểu giao dịch bằng tiền mặt (dùng trong giao dịch liên quan đến vàng). Giao dịch trên sàn vàng đúng là đòi hỏi phải có chuyển khoản, nên sàn vàng sẽ làm giảm giao dịch bằng tiền mặt liên quan đến vàng, với điều kiện là các giao dịch ngoài sàn vàng sẽ phải giảm đi tương ứng. Nhưng mặt khác, nếu cho phép doanh nghiệp nhập khẩu vàng, có thêm thương hiệu vàng để kinh doanh thì việc này sẽ rất có thể làm tăng giao dịch bằng tiền mặt giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, doanh nghiệp với người dân, diễn ra ngoài sàn vàng. Và kết hợp với lý do dưới đây nữa.

Thành lập sàn vàng cũng không giúp chống thất thu thuế. Nếu đúng là có việc này thì chính nó sẽ làm cản trở người dân/doanh nghiệp tham gia sàn vàng bởi không ai muốn phải nộp thuế khi giao dịch trên sàn (bên cạnh những chi phí giao dịch phát sinh khác khi mua bán trên sàn), thay cho những giao dịch truyền thống (được cho rằng đã trốn thuế, và tất nhiên là có chi phí giao dịch bằng 0).


No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).