Wednesday 29 October 2014

Hạ lãi suất - cần hiểu cho đúng (Bài đăng trên TBKTSG Online, 29/10, bản gốc)

http://www.thesaigontimes.vn/122008/Ha-lai-suat---can-hieu-cho-dung.html

Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hôm 28/10 lại một lần nữa hạ trần lãi suất để, theo như bình luận của nhiều tổ chức và cá nhân, thúc đẩy nhu cầu tín dụng, và nhờ đó, kích thích tăng trưởng kinh tế.
Có điều, không mấy ai để ý rằng bản chất của việc hạ lãi suất này của NHNN là khác hoàn toàn với việc hạ lãi suất của các ngân hàng trung ương thế giới nhằm kích thích tăng trưởng và việc làm.

Như đã biết, NHNN tuyên bố từ ngày 29/10 sẽ điều chỉnh giảm lãi suất tiền gửi tối đa bằng VND của các tổ chức, cá nhân tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ mức 6%/năm xuống 5,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 đến 6 tháng, điều chỉnh giảm lãi suất huy động ngắn hạn tối đa bằng USD của cá nhân tại các tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài từ mức 1%/năm xuống còn 0,75%/năm. Đồng thời, NHNN giảm lãi suất cho vay ngắn hạn tối đa bằng VND đối với một số lĩnh vực, ngành kinh tế từ mức 8%/năm xuống 7%/năm. Nhưng mặt khác, NHNN lại giữ ổn định các mức lãi suất điều hành (tái cấp vốn, tái chiết khấu, cho vay qua đêm).

Như vậy, trái với hành động cắt giảm lãi suất thông qua cắt giảm các lãi suất điều hành như thông thường, ở trường hợp ngân hàng trung ương các nước khác, NHNN không cắt giảm lãi suất điều hành, mà thực hiện thông qua việc bắt các ngân hàng thương mại cắt giảm lãi suất huy động (ngắn hạn) của họ. Có mấy điểm đáng nói về chuyện này.
Thứ nhất, do nhiều ngân hàng thương mại đã chủ động hạ lãi suất huy động trước đó do dư thừa thanh khoản (cũng một phần do nhu cầu vay của doanh nghiệp và dân cư còn hạn chế), nên việc NHNN hạ trần lãi suất huy động, mà lại chỉ ở kỳ hạn ngắn, sẽ không có mấy tác dụng đến việc hạ thêm mặt bằng lãi suất huy động ngắn hạn nói riêng và lãi suất huy động nói chung, và bởi vậy không hy vọng nhiều vào việc giảm lãi suất cho vay nói chung nhằm kích thích tăng trưởng như ý đồ.

Thứ hai, việc tiếp tục hạ và vẫn tiếp tục duy trì trần lãi suất tiền gửi, chứ không phải thông qua việc hạ lãi suất  điều hành của NHNN, nhằm hạ lãi suất cho vay thực chất là một cách tước đoạt tài sản của người này chia cho người khác, mà cụ thể ở đây là tước bớt thu nhập lẽ ra được hưởng của người gửi tiền tiết kiệm để trợ cấp cho các ngân hàng thương mại với hy vọng các ngân hàng chia sẻ lợi ích này cho doanh nghiệp và cá nhân vay vốn ngân hàng. Vậy thì tại sao người gửi tiền nhất định phải là đối tượng bị mang ra để hiến tế? Và ai, điều gì ngăn cấm các ngân hàng không hạ lãi suất cho vay để làm "ngư ông đắc lợi"? Hay nói cách khác, điều gì có thể giúp khẳng định được rằng lãi suất cho vay sẽ hạ (tương ứng) để kích thích tăng trưởng như kỳ vọng của NHNN?
Thứ ba, trong bối cảnh thanh khoản đang dư thừa và nhiều ngân hàng đã chủ động hạ lãi suất huy động ngắn hạn thì việc NHNN tiếp tục duy trì trần lãi suất huy động nếu có chăng chỉ là có tác dụng trừng phạt các ngân hàng nhỏ, yếu, ít uy tín và có vấn đề về thanh khoản, buộc chúng phải cạnh tranh với các đối thủ mạnh hơn bằng việc nâng lãi suất huy động. Như thế thì việc trừng phạt này là một bất công với các ngân hàng yếu thế hơn khi họ không thể cải thiện tính cạnh tranh bằng nâng lãi suất, một lẽ tự nhiên cuả quy luật thi trường. Nếu đúng thế thì tốt nhất là NHNN dẹp luôn các ngân hàng yếu thế này đi cho nhẹ gánh, chứ cứ để chúng tồn tại một cách lay lắt như vậy thì sớm muộn NHNN cũng lại phải nhảy vào giải quyết hậu quả khi chúng đã từ yếu trở nên yếu hơn nữa!

Thứ tư, xét về tổng thể, hạ trần lãi suất huy động không nhất thiết làm tăng nhu cầu tín dụng và tăng trưởng kinh tế, vì, như đã nói ở điểm thứ hai bên trên, hạ trần lãi suất tức là tước đoạt bớt đi thu nhập của một bộ phận người gửi tiền, cũng tức là làm giảm một phần tổng cầu đến từ một bộ phận người gửi tiền do thu nhập của họ bị giảm đi tương ứng, từ đó làm triệt tiêu một phần hay hoàn toàn tác động tích cực có thể có lên tổng cầu nhờ việc ngân hàng chủ động hạ lãi suất cho vay do lãi suất huy động của họ đã giảm.
Thứ năm, đành rằng NHNN cũng song song với việc hạ trần lãi suất huy động là hạ trần lãi suất cho vay. Nhưng cần lưu ý rằng đây chỉ là trần lãi suất cho vay ngắn hạn, và cũng chỉ giới hạn ở một số lĩnh vực và ngành nhất định, chứ không phải là cho toàn bộ nền kinh tế. Bởi vậy, các ngân hàng tuy được lợi từ việc hạ thấp trần lãi suất huy động nhưng lại không bị ép buộc, và không có động cơ để hạ lãi suất cho vay (trong những lĩnh vực và ngành nghề không bị khống chế bởi trần lãi suất cho vay), hạ biên độ lợi nhuận của mình. Điều này cũng có nghĩa là ý đồ hạ trần lãi suất huy động của NHNN để hạ mặt bằng lãi suất cho vay nói chung trong nền kinh tế sẽ không có hiệu quả như ý muốn.

Tóm lại, xét trên nhiều khía cạnh, hành động hạ trần lãi suất huy động của NHNN vừa sẽ không thể mang lại kết quả tích cực đúng như kỳ vọng, lại vừa gây ra thêm một số hậu quả khác do sự phân biệt đối xử vô hình mà nó mang lại cho người gửi tiền và các ngân hàng nhỏ, yếu. Bằng chứng về tác động hạn chế của việc hạ trần lãi suất huy động cũng đã thể hiện không gì rõ hơn qua tốc độ tăng trưởng tín dụng vẫn tiếp tục lẹt đẹt ở những lần hạ trần lãi suất huy động trước đây và trong năm nay.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).