Monday 29 October 2018

Làm gì để chống thất thu thuế? (Bài đăng trên TBKTSG, 30/10/2018, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/280627/lam-gi-de-chong-that-thu-thue-.html


Cục Thuế TP HCM mới đây cho biết tính đến ngày 31/8 nợ thuế trên địa bàn là 27.631 ngàn tỷ đồng, tăng tới 16,45% so với cuối năm 2017. Trong số này, nợ khó thu là 10.181 ngàn đồng, chiếm gần 40% tổng nợ thuế, tập trung và loại thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập doanh nghiệp...

Không rõ tốc độ tăng nợ thuế và tỷ lệ nợ thuế khó thu trong những năm trước ra sao, nhưng điều chắc chắn là tốc độ tăng tới 16,45% trong vòng có tám tháng là tốc độ cao một cách bất thường trong bối cảnh kinh tế vẫn đang tăng trưởng mạnh. Có lẽ, nếu có thì tốc độ tăng này chỉ thấp hơn con số tương tự trong những năm xảy ra khủng hoảng như 1997-1998 hay 2007-2008 khi tăng trưởng kinh tế lao dốc, hàng loạt doanh nghiệp đình đốn, phá sản.  

Ngoài sự bất thường, những con số vắn tắt trên còn gián tiếp cho thấy sự bất lực, không hiệu quả và cả những hành vi sai trái của (cán bộ) ngành thuế trong việc quản lý thuế, bất chấp đủ loại nỗ lực, quyết tâm với giải pháp mà ngành này đã và đang thực thi.

Không phải tìm đâu xa nguyên nhân gây ra nợ thuế lớn, ít nhất trên địa bàn TP HCM. Cũng theo Cục Thuế TP HCM,  những khoản nợ thuế lớn hầu hết là của những doanh nghiệp bất động sản, mà chỉ riêng năm doanh nghiệp được liệt kê “làm ví dụ” cũng đã có tổng số nợ thuế lên đến 1.262 tỷ đồng (1).

Như vậy, việc để những kẻ “có tóc” – những doanh nghiệp bất động sản – nợ (đọng) thuế vừa cho thấy rõ đâu là nguyên nhân chính đằng sau những con số nợ thuế bất thường, vừa cho thấy một điều khó có thể chấp nhận được là ngành thuế dường như đang chấp nhận sống chung với chuyện nợ thuế, không dám hay không xử lý được các doanh nghiệp nợ thuế vì lý do nào đó. Với đủ loại chế tài, quyền lực và công cụ thực thi pháp luật có trong tay tương tự như mọi cơ quan thuế trên thế giới, Cục Thuế TP HCM nói riêng, ngành thuế Việt Nam nói chung lẽ ra đã không được/nên để tình trạng nợ thuế tràn lan ở quy mô lớn này xảy ra. Và khi đã xảy ra rồi thì cứ nguyên nhân này mà quy trách nhiệm cho ngành thuế và người đứng đầu ngành.

Còn trong ngành hải quan của thành phố, thất thu thuế được đại diện ngành này cho là do tình hình buôn lậu, gian lận thương mại diễn biến phức tạp, chẳng hạn những gian lận thương mại lợi dụng chính sách thông quan thông thoáng (thông quan theo luồng xanh, vàng, đỏ…), gian lận trong kê khai trên hệ thống VNACCS, gian lận trong xuất nhập khẩu hàng hóa thuộc danh mục cấm, hoặc gian lận trong khai báo thông tin sai về hàng hóa…

Nhưng chẳng phải vì chính những hành vi gian lận, buôn lậu trên mới cần sự tồn tại và phát triển không ngừng tiêu vào ngân sách nhà nước của ngành hải quan hay sao? Nên nhớ rằng mục đích cho ra đời những chính sách và hệ thống như thông quan thông thoáng và VNACCS không phải là để đánh đổi sự thông thoáng về thủ tục hải quan lấy tệ nạn và gian lận thương mại gia tăng, “diễn biến phức tạp”.

Và cũng nên lưu tâm rằng dù là luồng xanh, vàng hay đỏ thì cũng vẫn đều được giám sát bởi con người – cán bộ hải quan. Hơn nữa, việc phân luồng này cũng chẳng phải chỉ có ở Việt Nam mà còn được áp dụng ở nhiều nước khác. Điều khác biệt là không thấy nước người ta phàn nàn rằng vì phân luồng như vậy nên mới làm “phức tạp” tình hình gian lận!

Ngay với VNACCS, hệ thống này đã được phát triển từ năm 2014 bằng vốn ODA của Nhật dựa trên mô hình hệ thống thông quan điện tử hoạt động thành công ở Nhật với nhiều yếu tố đã được “Việt hóa” để phù hợp với điều kiện của Việt Nam. Cán bộ điều hành thì được đào tạo đến nơi đến chốn trong và ngoài nước bởi chuyên gia nước ngoài… Nên không thể lấy sự ra đời và hoạt động của VNACCS như là một cái cớ để xảy ra các gian lận trên hệ thống này.

Tương tự như vậy là những gian lận liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hóa thuộc danh mục cấm hay thông tin về hàng hóa. Đã đặt ra những danh mục cấm, những biểu thuế khác nhau theo xuất xứ hay loại hàng hóa thì ngành hải quan phải có biện pháp kiểm tra, giám sát tương ứng để đề phòng, ngăn chặn những hành vi gian lận. Nếu đã để xảy ra rồi thì trách nhiệm trước tiên vẫn phải thuộc về cán bộ hải quan liên đới.

Chuyện cũng rất vô lý là ngành hải quan đổ lỗi cho việc kẹt xe làm thất thu thuế. Ví dụ được nêu ra là Cụm cảng Q.2, Q.9 bao gồm Cát Lái, các cảng ICD Phước Long, Phú Hữu... hoạt động hết công suất nhưng hạ tầng giao thông không thể đáp ứng được lượng xe container bốc dỡ hàng hóa (nên làm giảm thuế? – Người viết). Cái vô lý ở đây là nếu hạ tầng giao thông không thể đáp ứng được lượng xe container bốc dỡ hàng hóa thì làm sao mà những cảng này hoạt động hết công suất được? Nói cách khác, cảng đã hoạt động hết công suất thì có nghĩa là hạ tầng giao thông hiện tại là “đủ dùng” cho các cảng này. Vậy nếu có thất thu thuế, hay nói chính xác hơn, thu thuế trong năm nay không bằng các năm trước thì đó phải là bởi những lý do khác (chủ quan) chứ không phải là do tại hạ tầng.

Nói cho công bằng, không thể phủ nhận có những lý do ít nhiều mang tính khách quan không thuộc sự kiểm soát của ngành thuế và hải quan, gây ảnh hưởng xấu đến thu ngân sách. Chẳng hạn, một số (chi) cục thuế địa phương phàn nàn tình trạng “doanh nghiệp và nhà thầu không chịu trách nhiệm nên không chấp nhận trả nợ thuế”(?); việc phối hợp giữa Tổng cục Thuế với Tổng cục Cảnh sát “chưa đạt yêu cầu, chưa phối hợp tích cực để xử lý các hành vi trốn thuế, gian lận thuế”, theo đó cần “xem xét sửa đổi Bộ luật Hình sự, đưa nội dung nợ thuế, bỏ trốn vào quy định của luật”; và chưa có ủy nhiệm thu, thu thuế điện tử (với khu vực cá thể) (2). Nhìn chung, những lý do này trong chừng mực nào đó là sự thật nhưng suy cho cùng cũng đều có nguyên nhân chủ quan, tại con người, vẫn trong phạm vi và khả năng giải quyết của ngành thuế, nếu thực sự họ “quyết liệt” muốn làm (kể cả chuyện sửa luật nếu họ làm cho các cơ quan làm luật bị thuyết phục).

Một lý do hay được ngành thuế phàn nàn nữa là chuyện khó thu thuế dịch vụ cung cấp bởi các công ty đa quốc gia như  Facebook, Google, Amazon, Airbnb, Grab, Uber, Agoda hay Traveloka… vì một mình ngành thuế không làm được (3). Điều này có thể là đúng. Và có thể cũng đúng rằng “việc thu thuế các mô hình này không chỉ Việt Nam gặp khó mà rất nhiều quốc gia lúng túng”. Dù vậy, ngành thuế Việt Nam cần phải biết rằng có nhiều nước và khu vực đã tìm (ra) được cách đánh thuế lên những công ty đa quốc gia này mà Việt Nam có thể học hỏi được (4). Tất nhiên, việc áp dụng các phương cách của nước ngoài hoặc phối hợp song phương và đa phương với các nước để đánh thuế các công ty đa quốc gia có thể cần thiết phải sửa đổi một số luật tại Việt Nam, nhưng ngành thuế chính là nơi có trách nhiệm nghiên cứu, tham mưu và đề xuất những sửa đổi cần thiết này.

Tóm lại, dù chỉ có người trong cuộc là ngành thuế và hải quan mới biết rõ nguyên nhân thực sự của việc thất thu thuế là gì nhưng cứ căn cứ vào những trình bày với giải thích của họ với công luận là có thể kết luận rằng yếu tố chủ quan là nguyên nhân chính gây ra tình trạng nợ đọng, thất thu thuế. Các giải pháp vì thế cũng phải xoay quanh nguyên nhân này, và có thành công hay không là hoàn toàn do người đứng đầu của ngành thuế, hải quan.

Monday 22 October 2018

Nợ nước ngoài của doanh nghiệp: Không chỉ là chuyện riêng của doanh nghiệp (Bài đăng trên TBKTSG, 22/10/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/280293/no-nuoc-ngoai-cua-doanh-nghiep-khong-chi-la-chuyen-rieng-cua-doanh-nghiep.html

Hiện nay ở Việt Nam đã có nhiều doanh nghiệp trong nước và nước ngoài vì muốn có nguồn vốn lãi suất thấp để nhập khẩu nguyên vật liệu, thiết bị và máy móc nhằm đầu tư vào các cơ sở sản xuất, kinh doanh trong nước nên đã vay mượn một lượng lớn ngoại tệ từ các nguồn cả trong và ngoài nước lên đến hàng tỉ đô la Mỹ. 
Vì thế, dư nợ ngoại tệ của các khoản vay trung và dài hạn của doanh nghiệp đã tăng tới 22,56% trong năm 2017 so với năm 2016. Dư nợ ngoại tệ các khoản vay ngắn hạn còn tăng mạnh hơn, tới 73%. Cũng cần lưu ý là chỉ riêng dư nợ vay ngắn hạn bằng ngoại tệ của doanh nghiệp tại Việt Nam đã đạt con số 21,9 tỉ đô la vào cuối năm 2017, tức là khoảng gần 10% GDP (và khoảng 1/3 dự trữ ngoại hối của Việt Nam).
Tuy nhiên, dư luận dường như không quá quan tâm đến những con số trên, với quan niệm rằng vay nợ của doanh nghiệp là chuyện của doanh nghiệp, do doanh nghiệp tự vay tự trả, và nếu không trả được thì họ sẽ bị siết nợ, chứ không có liên quan gì đến quốc gia, công cộng. Quan niệm này bén rễ một phần có lẽ cũng bởi cung cách phân loại, phân biệt nợ theo chủ thể kinh tế ở Việt Nam, gồm nợ công (nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền địa phương) và nợ của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng theo hình thức tự vay tự trả.
Điều nguy hiểm gắn liền với sự tăng nhanh của nợ bằng ngoại tệ của doanh nghiệp là nó làm gia tăng nhanh chóng mức độ rủi ro gây ra đổ vỡ cho nền kinh tế, châm ngòi cho cuộc khủng hoảng nợ, có khả năng làm sụp đổ cả một nền kinh tế chỉ trong thời gian tính bằng quí.

Khi nợ nước ngoài của các doanh nghiệp tăng, sẽ không có nhiều điều đáng để nói nếu doanh thu và lợi nhuận của các doanh nghiệp này cũng bằng ngoại tệ, cũng tăng nhanh tương ứng để đảm bảo khả năng chi trả thông suốt và đúng hạn. Nhưng nếu chỉ có một phần doanh thu/lợi nhuận là bằng ngoại tệ, hoặc, tệ hơn, toàn bộ doanh thu/lợi nhuận của doanh nghiệp là bằng bản tệ, doanh nghiệp sẽ phải đối mặt với khả năng rất có thể xảy ra là vỡ nợ trong bối cảnh tỷ giá, vì một lý do nào đó, tăng lên đột ngột và mạnh.
Đến đây, câu chuyện này xem ra vẫn chỉ bó gọn trong phạm vi và là chuyện riêng của doanh nghiệp với người cho vay (trong hoặc ngoài nước). Tuy thế, sự việc sẽ rất khác khi có nhiều doanh nghiệp cùng đi vay ngoại tệ và vay với tổng số lên đến nhiều tỉ đô la trong một nền kinh tế quy mô khiêm tốn và quỹ dự trữ ngoại hối cũng khiêm tốn như của Việt Nam, và đặc biệt là khi đột ngột có một cú sốc nội tại hay ngoại lai nào đó xảy đến, chẳng hạn chiến tranh thương mại (và tiền tệ) như hiện tại.
Trước nhu cầu mua vét ngoại tệ khổng lồ của doanh nghiệp để trả nợ (và đầu cơ), Ngân hàng Nhà nước (NHNN) buộc phải tung dự trữ ngoại hối để ổn định tỷ giá ở quy mô tương ứng. Cũng nên lưu ý rằng không chỉ có doanh nghiệp mới phải lo tích trữ ngoại tệ để trả nợ mà cả Chính phủ cũng phải lo việc này, nên gánh nặng bình ổn tỷ giá của NHNN càng trở nên nặng. Do quỹ dự trữ có hạn so với quy mô nợ nước ngoài của cả Chính phủ lẫn doanh nghiệp nên đến một thời điểm nào đó NHNN sẽ buộc phải ngừng can thiệp, đồng nghĩa với việc phải thả nổi tỷ giá, điều đã từng được chứng kiến trong quá khứ ở Việt Nam cũng như tại nhiều nước trên thế giới.
Tỷ giá đang từ trạng thái bị nén chặt đột ngột bị thả nổi không kiểm soát sẽ kích hoạt sự tháo chạy của vốn nước ngoài, càng làm trầm trọng thêm tình hình, càng làm cho bản tệ lao dốc hơn nữa. Giải pháp hữu hiệu duy nhất lúc này là NHNN phải nâng lãi suất lên đến hàng chục điểm phần trăm để mong giữ chân dòng vốn ngoại đảo chiều. Rất tiếc là thường trước khi điều này phát huy tác dụng, nó đã kịp tàn phá nền kinh tế bản địa do các doanh nghiệp không thể chịu được mức lãi suất “cắt cổ” nên phá sản hàng loạt, kéo theo sự sụp đổ của cả hệ thống tài chính, ngân hàng trong nước, gây ra khủng hoảng kinh tế toàn diện.
Điều may mắn là Quốc hội và Chính phủ đã nhận thức được rủi ro theo kịch bản trên nên đã ra những quyết định như khống chế hạn mức vay thương mại nước ngoài của doanh nghiệp cho từng thời điểm (không quá 5 tỉ đô la trong năm 2018, và dư nợ vay nước ngoài ngắn hạn của doanh nghiệp cuối năm 2018 không vượt quá dư nợ cuối năm 2017).
Nhưng quy định hạn mức như trên sẽ dẫn đến những hậu quả không mong muốn là sẽ có tình trạng “chạy đua” vay nợ nước ngoài trong các doanh nghiệp; ai nhanh hơn thì sẽ vay được (nhiều), trước khi toàn bộ hạn mức được sử dụng hết. Nếu Chính phủ không muốn, không chấp nhận tình trạng chạy đua này thì buộc phải xét duyệt từng trường hợp xin vay vốn. Tình trạng này không chỉ làm ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp (ít nhất thì quan điểm về tính cần thiết của dự án vay vốn của Chính phủ thường sẽ khác với của doanh nghiệp) mà còn làm nảy sinh việc “chạy” vay vốn nước ngoài, đảm bảo người thắng cuộc luôn là các doanh nghiệp/doanh nhân “cá mập”, có tầm ảnh hưởng chi phối đến cơ quan quản lý.
Để tránh những hậu quả trên, Chính phủ cần áp dụng một chính sách nhất quán, bao trùm, trước hết là tiến tới cấm doanh nghiệp vay vốn nước ngoài, dù là có hay không có nguồn thu ngoại tệ. Với những doanh nghiệp có nguồn thu bằng ngoại tệ, họ sẽ được xem xét (cam kết) cho mua (chứ không phải cho vay) ngoại tệ để đáp ứng các nhu cầu chính đáng như nhập khẩu nguyên vật liệu, theo quy mô ngoại tệ mà họ bán cho hệ thống ngân hàng trong nước trước đó, nếu có. Với những doanh nghiệp còn lại, ngoài việc không được vay ngoại tệ, việc mua ngoại tệ cũng sẽ không được cam kết bảo đảm.
Tất nhiên là trong giai đoạn nền kinh tế đang chuyển đổi như của Việt Nam, sẽ (buộc phải) có một vài ngoại lệ dành cho một số doanh nghiệp, ví dụ, doanh nghiệp trong lĩnh vực xăng dầu, quốc phòng, an ninh... những doanh nghiệp về nguyên tắc là không có nguồn thu bằng ngoại tệ. Với những ngoại lệ này, Chính phủ sẽ phải bảo đảm cung ứng ngoại tệ (theo tỷ giá thị trường) để họ nhập khẩu cho nhu cầu chính đáng của mình và xã hội. 

Thursday 18 October 2018

Thực hư cuộc đua lãi suất tiền gửi của các 'ông lớn' ngân hàng (Bài đăng trên Zing, 19/10/2018)

https://news.zing.vn/thuc-hu-cuoc-dua-lai-suat-tien-gui-cua-cac-ong-lon-ngan-hang-post885600.html


4 ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) có vốn nhà nước gần đây đã điều chỉnh tăng khá mạnh lãi suất huy động áp dụng cho nhiều kỳ hạn. Điển hình là Agribank đã điều chỉnh tăng tất cả lãi suất tiền gửi tiết kiệm ở nhiều kỳ hạn với mức tăng khoảng 0,2 đến 0,3 điểm phần trăm. Cụ thể, lãi suất kỳ hạn 1 tháng của ngân hàng này tăng từ mức 4,3%/năm lên 4,5%/năm; kỳ hạn 2 tháng tăng từ 4,2%/năm lên 4,5%/năm, kỳ hạn 3 tháng tăng từ 4,6%/năm lên 4,8%/năm; kỳ hạn 6 tháng tăng từ 5,3% lên 5,5%/năm.

Tương tự, Vietcombank vốn khá “bảo thủ” với lãi suất, cũng đã phải tham gia cuộc chơi, điều chỉnh tăng lãi suất kỳ hạn dưới 3 tháng thêm 0,1 điểm phần trăm lên 4,4%/năm. Kỳ hạn 3 và 6 tháng tăng 0,2 điểm phần trăm lên 4,8%/năm và 5,5%/năm.

Trước đó, VietinBank và BIDV đã sớm tăng lãi suất tiết kiệm tại nhiều kỳ hạn. Kết quả là lãi suất của 4 ngân hàng TMCP có vốn nhà nước thậm chí còn cao hơn một số ngân hàng khác ở nhiều kỳ hạn ngắn. Cụ thể, ở kỳ hạn 1 đến 6 tháng, lãi suất của Vietcombank, Agribank, BIDV và VietinBank ở mức từ 4,5%-5,5%/năm, cao hơn đáng kể so với LienVietPostBank khi chỉ ở mức 4,1%-5,1%/năm.

Với những kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, lãi suất của những “ông lớn” ngân hàng này (trừ Vietcombank) cũng đều tiệm cận hoặc thậm chí là nhỉnh hơn của một số ngân hàng TMCP tư nhân như LienVietPostBank, Techcombank, MBBank, TP Bank và Eximbank (xem bảng).

Điều này làm cho nhiều người nhìn nhận rằng sự biến động tăng lên của lãi suất huy động ở các ngân hàng TMCP có vốn nhà nước, với vai trò “kim chỉ nam” cho các ngân hàng nhỏ, đã và sẽ tiếp tục đẩy mặt bằng lãi suất huy động lên cao.

Tuy nhiên, thực tế không hẳn là vậy. Trước tiên, cần lưu ý rằng 4 ngân hàng TMCP có vốn nhà nước mới chỉ điều chỉnh (đáng kể) lãi suất tiền gửi gần đây, sau khi nhiều ngân hàng TMCP tư nhân đã tăng mạnh lãi suất từ trước đó vài tháng. Nói cách khác, sự điều chỉnh tăng lên về lãi suất huy động của các ngân hàng TMCP có vốn nhà nước, đặc biệt ở kỳ hạn ngắn, chỉ là sự chạy theo xu hướng, chứ không phải dẫn đầu, định hướng cho các ngân hàng TMCP tư nhân khác.

Thêm nữa, biểu lãi suất tiền gửi hiện tại của LienVietPostBank đã được áp dụng từ 8/8/2018, tức là đã cách đây hơn 2 tháng khi nhiều ngân hàng khác chưa điều chỉnh lãi suất. Điều này chứng tỏ lãi suất của ngân hàng này không phải là kém cạnh tranh so với các ngân hàng khác tại thời điểm áp dụng. Điều đáng nói là dư địa tăng trưởng tín dụng của LienVietPostBank năm 2018 đã không còn nhiều. Trong nửa đầu năm 2018, tăng trưởng tín dụng của LienVietPostBank đã đạt tới 13,3% so với cuối năm 2017, trong khi chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng được phép tối đa bị khống chế ở mức 14% cho cả năm nay (25% trong năm 2017). Như vậy, rõ ràng là ngân hàng này không có nhiều áp lực phải chạy đua tăng lãi suất huy động để có thêm vốn đẩy mạnh cho vay nữa.

Với Eximbank, dù có chỉ tiêu tăng trưởng tín dụng năm 2018 là 12%, khá thấp hơn so với mặt bằng chung, nhưng 6 tháng đầu năm Eximbank tăng trưởng tín dụng âm 0,5%. Điều này chứng tỏ ngân hàng này có những khó khăn nhất định trong, hoặc có chiến lược không chú trọng vào việc đẩy mạnh cho vay. Nói cách khác, họ không có động cơ chạy đua nâng lãi suất để huy động thêm được nhiều vốn nhằm đáp ứng nhu cầu cho vay.

Tương tự, Techcombank có chiến lược chuyển từ cho vay trung-dài hạn sang cho vay ngắn hạn nên rõ ràng là nhu cầu huy động vốn trung-dài hạn sẽ phải giảm đi tương ứng, theo đó, lãi suất huy động trung-dài hạn của ngân hàng này đã và sẽ ở mức tương đối thấp so với các đối thủ. Thêm nữa, ngân hàng cũng tập trung vào xây dựng các mối quan hệ hợp tác liên kết để đa dạng hóa nguồn thu. Nhờ thế, ngân hàng đạt được tỉ lệ thu nhập ngoài lãi chiếm đến 41.7% tổng thu nhập trong nửa đầu năm 2018. Đây cũng là lý do Techcombank không có áp lực lớn trong việc cạnh tranh lãi suất huy động.

Một ngân hàng khác có lãi suất huy động tương đối thấp là MBBank. Lý do có thể bắt nguồn từ dư địa tăng trưởng tín dụng cũng không còn “xông xênh” trong năm nay khi tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm đã đạt 11% trong khi hạn mức tăng trưởng cả năm là 15%. Hơn nữa, ngân hàng này có lợi thế lớn là luôn có nguồn vốn huy động có chi phí thấp. Ngoài ra, ngân hàng này từ giữa năm 2017 có một lượng vốn lớn đang phân bổ ở thị trường 2 có hiệu quả không cao, nên đã chuyển sang cho vay khách hàng trong năm nay. Những yếu tố này kết hợp với nhau làm cho MBBank không phải tích cực tham gia cuộc đua lãi suất như với các ngân hàng khác.

Cuối cùng là TP Bank, ngân hàng này đạt tốc độ tăng trưởng tín dụng 6 tháng đầu năm tới 14,5%. Trong khi đó, hạn mức tín dụng của ngân hàng chỉ là 15%. Điều này buộc ngân hàng phải giảm thiểu các hoạt động cho vay. Vì vậy, áp lực chạy đua nâng lãi suất huy động của ngân hàng này cũng được giảm bớt đi.

Tóm lại, từ những phân tích ở trên có thể thấy rằng lãi suất tiền gửi của các ngân hàng TMCP có vốn nhà nước vẫn đang thuộc nhóm thấp nhất trên thị trường, trừ những ngân hàng mà vì một vài lý do cụ thể cũng đang có lãi suất huy động khá thấp. Và do các ngân hàng TMCP có vốn nhà nước cũng chỉ mới gia tăng sau khi nhiều ngân hàng TMCP tư nhân đã tăng mạnh lãi suất nên không thể kết luận được rằng các ngân hàng TMCP có vốn nhà nước đang dẫn dắt thị trường và sẽ tiếp tục đẩy lãi suất lên cao trong thời gian tới. Nói cách khác, lãi suất nếu có tăng trong thời gian tới vẫn sẽ tiếp tục được dẫn đầu bởi các ngân hàng TMCP tư nhân, đặc biệt là những ngân hàng nhỏ, yếu.
Thuc hu cuoc dua lai suat tien gui cua cac 'ong lon' ngan hang hinh anh 1

Friday 12 October 2018

Nên cởi mở đón nhận cho vay ngang hàng (Bài đăng trên CafeF, 12/10/2018)

http://cafef.vn/chuyen-gia-nen-coi-mo-don-nhan-cho-vay-ngang-hang-20181012110544971.chn

Cho vay ngang hàng (P2P) đã ra đời và phát triển từ hơn chục năm nay trên thế giới và cũng đã xuất hiện ở Việt Nam với hàng chục doanh nghiệp hoạt động khá rầm rộ tuy chưa một doanh nghiệp nào được cấp phép chính thức cho hoạt động này vì cơ quan chức năng chưa đưa ra được khuôn khổ pháp lý thích hợp.
Tuy nhiên, tin tức về hàng loạt vụ phá sản, đóng cửa, bỏ trốn của các (chủ) doanh nghiệp cho vay ngang hàng ở Trung Quốc đã làm cho dư luận tại Việt Nam hiện có hướng thiên về kiến nghị Nhà nước cấm đoán hoạt động này ở Việt Nam. Chẳng hạn, theo một cuộc khảo sát nhỏ trên Thời báo Kinh tế Sài Gòn mới đây, kết quả cho thấy có đến 81% số người tham gia khảo sát trả lời là không nên phát triển mô hình cho vay ngang hàng ở Việt Nam. Còn trong dư luận, không ít ý kiến cho rằng cho vay ngang hàng là một dạng kinh tế tài chính "ảo", dịch vụ "ảo" nên trước sau gì cũng mang đến những kết quả "ảo", kết cục xấu (cho người cho vay tiền).
Thực tế, cái nhìn tiêu cực như trên đối với cho vay ngang hàng có lẽ phần nhiều xuất phát từ tâm lý "con chim bị tên thấy cành cong cũng sợ". Nếu được hiểu một cách thấu đáo hơn thì cho vay ngang hàng không chỉ không đáng sợ như vậy mà còn mang lại nhiều lợi ích cho xã hội, nếu biết cách quản lý và phát huy.
Lợi và hại
Lợi ích lớn nhất là tất cả các bên trong các giao dịch cho vay ngang hàng đều được hưởng lợi. Người đi vay thì được vay với một lãi suất tuy cao hơn ngân hàng nhưng thậm chí còn thấp hơn cả vay từ các công ty tài chính/vay tiêu dùng. Người cho vay thì được hưởng một lãi suất cao hơn nhiều so với nếu họ gửi tiết kiệm tại ngân hàng. Sàn/nền tảng cho vay ngang hàng thì được hưởng phí từ cả 2 bên đi vay và cho vay, tuy với một mức khá khiêm tốn (ví dụ, sàn Funding Circle của Anh chỉ tính phí giao dịch 1% với người cho vay và 0,25% với người đi vay). Yếu tố chính đằng sau những lợi ích này là chi phí hoạt động thấp của sàn, do các giao dịch đều thực hiện online (trực tuyến) một cách nhanh chóng, với bộ máy quản lý gọn nhẹ, ít tốn kém. 
Ngoài cái lợi về lãi suất, cái lợi to lớn khác khó mà đong đếm được là sự tiếp cận của các doanh nghiệp vừa và nhỏ với các nguồn vốn phi ngân hàng sẵn có trên thị trường mà chẳng cần có bảo lãnh hay tài sản thế chấp. Không ít trong số những doanh nghiệp loại này đã từng và sẽ tiếp tục bị ngân hàng từ chối cho vay, làm mất đi nhiều cơ hội kinh doanh có khả năng sinh lời tốt. Điều này càng có ý nghĩa khi nền kinh tế trì trệ, tín dụng ngân hàng thì bị siết chặt do mức độ rủi ro cho vay đã tăng lên. Trong bối cảnh này, các Chính phủ càng có lý do để khuyến khích sự phát triển của cho vay ngang hàng như là một biện pháp kích thích tăng trưởng hữu hiệu nhưng không tốn kém (cho ngân sách).
Về cái hại, rủi ro lớn nhất là cho vay ngang hàng không thuộc phạm vi bảo lãnh của Quỹ bảo hiểm tiền gửi của Nhà nước nên người cho vay có thể mất trắng toàn bộ số tiền cho vay nếu người vay không/mất khả năng chi trả. Tuy nhiên, bản chất của cho vay ngang hàng – tiền của người cho vay được phân tán cho nhiều người vay – lại chính là một yếu tố giảm nhẹ rủi ro này. Thậm chí một số sàn còn tự nguyện lập ra các nguồn quỹ để "bảo hiểm" và/hoặc đền bù cho người cho vay trong trường hợp người vay không trả nợ (tất nhiên là chi phí này sẽ được cộng vào phí giao dịch mà người đi vay và cho vay phải trả cho sàn). Một số sàn khác thì giữ tài sản thế chấp là bất động sản để đảm bảo khoản vay.
Được khuyến khích phát triển
Như phân tích thêm ở dưới đây, không chỉ Trung Quốc chấp nhận cho ngành cho vay ngang hàng tồn tại và phát triển mà điều này còn đúng với nhiều nước trên thế giới bởi sự nhận thức rõ được những lợi ích mà nó mang lại cho nền kinh tế (trong khi những rủi ro, nguy hại của cho vay ngang hàng thì hoàn toàn có thể điều tiết, quản lý được).
Chẳng hạn ở Anh, hồi tháng 4/2016, Chính phủ Anh cho phép thành lập Tài khoản Tiết kiệm Tài chính Sáng tạo (IFSA) của cá nhân, qua đó cho phép công dân Anh đầu tư tới 20.000 USD vào các nền tảng tài chính khác nhau và được hoàn thuế. Những lựa chọn mà người Anh có thể đầu tư gồm có cả các nền tảng cho vay ngang hàng.
Theo dữ liệu của Chính phủ, IFSA đã thúc đẩy mạng sự tăng trưởng về giá trị giao dịch và số lượng nhà đầu tư đăng ký mới vào các nền tảng cho vay ngang hàng được cấp phép. Chẳng hạn, nền tảng Crowd2Fund chuyên cho vay các doanh nghiệp nhỏ đã đạt được tăng trưởng về vốn cho vay qua nền tảng này tới 667% và 373% tăng trưởng về số lượng nhà đầu tư đăng ký mới.
Ngăn chặn lừa đảo chứ không phải là ngăn chặn hoạt động và phát triển
Trở lại với các vụ việc lùm xùm ở Trung Quốc, điều cần lưu ý là mặc dù Chính phủ Trung Quốc trong hai năm qua đã ban hành và siết chặt các luật lệ và chính sách để hạn chế cho vay ngang hàng, nhưng sự hạn chế này là để giảm rủi ro cho người cho vay và người đi vay, nhằm mục đích thiết lập một ngành có các quy chuẩn hoạt động, chứ không phải là cấm cho vay ngang hàng.
Cụ thể hơn, Trung Quốc cấm các nền tảng/sàn cho vay ngang hàng được huy động vốn, cho vay, và "gọi vốn bất hợp pháp" để ngăn chặn việc hình thành quỹ huy động vốn theo kiểu kinh doanh đa cấp, lấy vốn của người sau trả cho người trước. Các hoạt động marketing offline cũng bị cấm, ngoại trừ hoạt động thu thập thông tin tín dụng, theo dõi vốn vay, quản lý tài sản thế chấp. Chính phủ Trung Quốc cũng cảnh báo các sàn cho vay ngang hàng – những sàn có vốn góp cổ đông và huy động vốn từ đám đông người tham gia – không được ngụy tạo mục tiêu và tự tài trợ. Các sàn cũng không được tài trợ cho các lĩnh vực như quản lý tài sản, chuyển giao cổ phần hoặc quyền của chủ nợ, hoặc cấp vốn cho thị trường các loại chứng khoán rủi ro cao, trừ khi được phê duyệt bởi cơ quan chức năng.   
Kết quả của chiến dịch siết chặt luật lệ và mạnh tay điều tra, trấn áp các sàn cho vay ngang hàng "có vấn đề" đã dẫn tới sự đóng cửa tới hơn 5.000 sàn cho vay ngang hàng ở Trung Quốc trong giai đoạn từ năm 2016 đến nay. Hồi tháng 7, Chính phủ Trung Quốc tuyên bố sẽ tiếp tục chiến dịch thanh lọc này thêm 2 năm nữa trên toàn quốc nhằm ngăn chặn các hành vi lừa đảo và vi phạm quy chế, loại bỏ các doanh nghiệp cho vay ngang hàng xấu, đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh và bền vững của thị trường cho vay ngang hàng vốn sẽ mang lại lợi ích cho xã hội trong dài hạn.
Ít nhiều tương tự như vậy, Chính phủ Anh quản lý cho vay ngang hàng bằng cách yêu cầu các sàn phải tách bạch tiền của khách và tiền của mình (gửi tiền của khách vào tài khoản của bên thứ ba). Các sàn cũng được quy định phải có một lượng tiền dự trữ đề phòng mọi cú sốc tài chính (không kể các quỹ dự phòng, bảo hiểm nói ở đoạn trên). Ngoài ra, các sàn phải có kế hoạch xử lý các khoản nợ vay nếu công ty đi vay bị phá sản.
Như vậy, từ thực tiễn các nước trên thế giới có thể thấy cho vay ngang hàng về bản chất và thực tế không có gì là xấu, cần được đón nhận và tạo điều kiện phát triển ở Việt Nam. Điều cần làm ngay và trên hết là cơ quan chức năng phải đề ra được khuôn khổ pháp luật, cấp phép và thanh tra, giám sát hoạt động của các nền tảng cho vay ngang hàng hiện có và sẽ thành lập trong tương lai để đảm bảo rằng chúng hoạt động tuân thủ theo luật định, giảm rủi ro cho các nhà đầu tư (người cho vay).  

Wednesday 10 October 2018

Nguy cơ đối mặt với cuộc khủng hoảng nợ (Bài đăng trên TBKTSG, 11/10/2018, bản gốc)

https://www.thesaigontimes.vn/279894/nguy-co-doi-mat-voi-cuoc-khung-hoang-no-.html


Kể từ lúc chiến tranh thương mại Mỹ-Trung có dấu hiệu sẽ nổ ra, chứng khoán của các thị trường mới nổi đã tụt giảm mạnh, không chỉ ở Thổ Nhĩ Kỳ và Trung Quốc, là hai nước mục tiêu của cuộc chiến thương mại và ngoại giao của chính quyền Trump. Thị trường của các nước mới nổi và đang phát triển khác như Argentina, Indonesia, Ấn Độ và cả Việt Nam cũng chịu chung tình cảnh.

Tuy được không ít người cho rằng Việt Nam sẽ được hưởng lợi từ cuộc chiến thương mại Mỹ-Trung, nhưng thực tế khi cuộc chiến này nổ ra VnIndex đã có thời điểm mất tới 26% giá trị so với đỉnh điểm 1.204 đạt được vào ngày 9/4 năm nay (xem hình). Tuy đã có sự phục hồi nhưng VnIndex hiện vẫn còn thấp hơn đỉnh điểm này tới 15%.





Chiến tranh thương mại ảnh hưởng tiêu cực đến thị trường chứng khoán là điều đáng lo ngại. Nhưng, điều đáng lo ngại không kém là gánh nặng nước ngoài ở các thị trường mới nổi có thể gây ra những cuộc khủng hoảng nợ nghiêm trọng trong bối cảnh có chiến tranh thương mại. Những cuộc khủng hoảng nợ trước đây thường gây ra hậu quả lớn hơn nhiều so với khủng hoảng chứng khoán.

Nợ doanh nghiệp của ở các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển hiện đã vượt xa mức trước khi xảy ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008. Rủi ro đi kèm với thực tế này là nợ doanh nghiệp cao sẽ đe dọa ổn định tài chính và làm suy yếu nghiêm trọng bảng cân đối tài sản của các ngân hàng. Những rủi ro này hiển hiện rõ ở Đông Á, nơi có tăng trưởng kinh tế cao nhưng thường dựa trên mức vay nợ cao.

Hành động của chính quyền Trump càng tạo thêm điều kiện để cuộc khủng hoảng nợ xảy ra nhanh hơn, nguy hiểm hơn. Chiến tranh thương mại (và ngoại giao) làm các nhà đầu tư phải rút vốn khỏi thị trường chứng khoán của các nước mới nổi, làm cho các doanh nghiệp vốn không tiếp cận được tín dụng ngân hàng nên phải huy động vốn từ thị trường chứng khoán sẽ bị ảnh hưởng. Họ không thể huy động vốn mới để đáo hạn nợ cũ nữa. Đến lượt mình, các doanh nghiệp này lại làm ảnh hưởng đến các doanh nghiệp liên đới, là khách hàng vay tín dụng từ hệ thống ngân hàng, nên sẽ kéo theo nạn nhân mới là các ngân hàng khi khách vay không trả được nợ. Theo đó là một cuộc khủng hoảng nợ có thể xảy ra bất cứ lúc nào.

Nguy cơ của một cuộc khủng hoảng nợ kèm với việc Mỹ đánh thuế cao lên hàng nhập khẩu vào Mỹ (và ngược lại, các nước khác như Trung Quốc có biện pháp tương tự trả đũa đối với Mỹ) và triển vọng thương mại toàn cầu chậm lại sẽ làm suy giảm mạnh lòng tin và tạo tâm lý bi quan trong giới đầu tư toàn cầu. Cuộc khủng hoảng nợ tại các nền kinh tế mới nổi và đang phát triển vì thế sẽ lan rộng ra cả những nền kinh tế phát triển.

So với những nền kinh tế tăng trưởng nhanh và có mức nợ doanh nghiệp cao ở châu Á được cho là dễ bị tổn thương bởi cuộc khủng hoảng nợ, Việt Nam không phải là ngoại lệ. Mức nợ nước ngoài của doanh nghiệp trên GDP ở Trung Quốc là 6,3%, Hàn Quốc là 15,1%, Malaysia là 11,7%, Thái Lan là 9,5%, Indonesia là 9,1% và Ấn Độ là 7,7%.

Ở Việt Nam, chỉ riêng nợ ngắn hạn nước ngoài của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng theo hình thức tự vay tự trả tính đến cuối năm 2017 đã là 21,9 tỷ USD (1). Với GDP khoảng 220 tỷ USD thì nợ này tương đương khoảng 10% GDP của Việt Nam. Tuy nhiên, nếu tính thêm cả nợ vay dài hạn của doanh nghiệp và tổ chức tín dụng, cũng như nợ có bảo lãnh của Chính phủ và nợ của Chính phủ đi vay về cho vay lại thì chắc chắn con số này phải lớn hơn nhiều, và nhìn chung sẽ cao hơn so với các nước khác trong khu vực.

Vấn đề trở nên trầm trọng hơn khi trong cùng thời kỳ này các nước phát triển lại bắt đầu bình thường hóa chính sách tiền tệ của mình, nâng dần lãi suất để giảm áp lực lạm phát trên lãnh thổ của họ. Điều này góp phần làm “khô hạn” thanh khoản ở các nước mới nổi, đang phát triển, gây khó cho việc huy động vốn của doanh nghiệp nơi này, càng làm tăng rủi ro vỡ nợ, phá sản của chúng.

Rủi ro của một cuộc khủng hoảng nợ mới là kết quả tổng hợp của cuộc chiến thương mại đang ngày càng diễn ra kịch tính hơn, nợ doanh nghiệp tăng cao ở các nền kinh tế mới nổi, và sự thắt chặt tiền tệ ở các nước đang phát triển với Việt Nam có thể đã bộc lộ ở sự căng thẳng về tỷ giá tiền đồng/USD và áp lực tăng lên của lãi suất tiền đồng.

Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng nợ quốc tế đang rình rập, điều mà Việt Nam có thể làm được để hạn chế phần nào hậu quả là phải nhanh chóng giảm thiểu vay nợ nước ngoài của không chỉ doanh nghiệp mà còn của Chính phủ để giảm gánh nặng phải can thiệp bảo vệ tỷ giá lên NHNN cũng như bảo vệ quỹ dự trữ ngoại hối, vốn chỉ nên được dùng cho những lúc nguy cấp, ví dụ khi có chảy máu ngoại tệ ồ ạt.

Liên quan đến giảm thiểu vay nợ nước ngoài, nếu cần thiết thì phải hoãn vô thời hạn một số dự án phát triển quy mô lớn sử dụng vốn vay nước ngoài (cả ưu đãi lẫn thương mại) cho đến khi tình hình bất lợi bên ngoài trở nên đỡ rủi ro hơn. Phương châm chính sách trong giai đoạn rối ren này phải là phòng bị, giảm rủi ro, chứ không phải là mở rộng, phát triển để gánh thêm rủi ro.

Mặt khác, Việt Nam cũng cần phải tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư thân thiện hơn với nhà đầu tư để tiếp tục hấp dẫn và giữ chân dòng vốn đầu tư không chỉ trực tiếp mà còn cả gián tiếp. Về khía cạnh này, cần xử lý đúng mức để quan điểm “xét lại” về vốn FDI đang trở nên phổ biến hiện nay không làm ảnh hưởng tiêu cực đến dòng vốn FDI chảy vào Việt Nam. Bởi, suy cho cùng, các yếu tố chủ quan mới là nguyên nhân của những tiêu cực mà dòng vốn FDI gây ra, nếu có, cho nền kinh tế bản địa, chứ đó không phải là đặc tính của FDI. 

(1) http://vneconomy.vn/du-no-vay-ngan-han-nuoc-ngoai-cua-doanh-nghiep-to-chuc-tin-dung-tang-dot-bien-20180527171033991.htm

Tuesday 9 October 2018

Cần sớm quản lý cho vay ngang hàng (Bài đăng trên TBKTSG, 9/10/2018)

https://www.thesaigontimes.vn/279602/can-som-quan-ly-cho-vay-ngang-hang.html

Cho vay ngang hàng (P2P) là hình thức cho vay cá nhân và doanh nghiệp thông qua các dịch vụ trực tuyến (online) kết nối người vay và cho vay. Vì những công ty cung cấp dịch vụ cho vay ngang hàng thường giao dịch trực tuyến nên chúng có thể hoạt động với chi phí thấp, nhờ đó cung cấp dịch vụ với mức phí cũng thấp hơn so với các tổ chức tín dụng (TCTD). 

Đồng thời, người cho vay cũng hưởng lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi tiết kiệm ngân hàng, còn người vay thì được hưởng lãi suất vay thấp hơn so với vay ngân hàng.

Do cho vay ngang hàng thường là không có, không yêu cầu tài sản bảo đảm, thủ tục đơn giản nhanh gọn nên dịch vụ này rất thích hợp với cá nhân và doanh nghiệp nhỏ và vừa - những đối tượng thường không đáp ứng được yêu cầu để được vay từ các TCTD truyền thống.
Ra đời đầu tiên ở Anh, Canada (2005) và Mỹ (2006), cho vay ngang hàng đến nay đã xuất hiện ở hàng chục nước trên thế giới. Hiện ở châu Á, cho vay ngang hàng đã phát triển mạnh ở Trung Quốc, Hàn Quốc và Indonesia. Việt Nam cũng đang có một số doanh nghiệp cho vay ngang hàng hoạt động khá sôi động.
Tuy nhiên, tại Việt Nam, về mặt pháp lý, chưa có một doanh nghiệp cho vay ngang hàng nào được quản lý (cấp phép) một cách chính thức, bởi cơ quan chức năng vẫn... “đang có đề án nghiên cứu”. Điều này là trái ngược với chiều hướng chung trên thế giới khi nhiều nước ít nhiều đều đã đưa ra những quy chế và chế tài nhằm quản lý hoạt động cho vay ngang hàng trên lãnh thổ của họ. Vì vậy, cơ quan chức năng Việt Nam cần nhanh chóng nhận diện các rủi ro chính trong lĩnh vực cho vay ngang hàng để có các biện pháp quản lý thích hợp nếu không muốn chứng kiến những vụ việc vi phạm của nhiều doanh nghiệp cho vay ngang hàng gây thiệt hại lớn cho người cho vay như ở Trung Quốc trong thời gian qua.
Rủi ro trong cho vay ngang hàng
Thành công của cho vay ngang hàng phụ thuộc vào việc có bao nhiêu người sẵn lòng cho vay trên các sàn P2P và những biện pháp bảo vệ quyền lợi của người cho vay. Thường không phải tất cả người cho vay nhận diện được các rủi ro gắn liền với việc cho vay của mình qua các doanh nghiệp cho vay ngang hàng.
Về cơ bản, có năm loại rủi ro với người cho vay. Thứ nhất, tiền của người cho vay trên sàn cho vay ngang hàng có thể không được bảo hiểm bởi Chính phủ như với tiền gửi ngân hàng nên họ hoàn toàn có thể trắng tay (trên thực tế, cũng có những doanh nghiệp cho vay ngang hàng như Zopa và RateSettler của Anh cung cấp dịch vụ bảo hiểm thông qua các quỹ bảo hiểm).
Thứ hai, mặc dù nhiều doanh nghiệp cho vay ngang hàng tuyên bố là họ có quy trình đánh giá rủi ro tín dụng của người vay tương tự như của TCTD truyền thống, nhưng họ thường không chia sẻ với người cho vay đánh giá này cũng như các thông tin mà người vay cung cấp cho doanh nghiệp cho vay ngang hàng. Do đó, rủi ro với người cho vay là họ có thể đang ném tiền vào một lỗ đen nào đó.
Thứ ba, cũng giống như việc ngân hàng cũng vướng phải nợ xấu, khó có khả năng thu hồi, bất chấp họ trước đó đã thẩm định, đánh giá rủi ro các khoản vay kỹ lưỡng thế nào, người cho vay có khả năng sẽ gặp rủi ro tương tự. Lúc đó, rủi ro mà người cho vay phải đối mặt tiếp theo là liệu có thu hồi được một phần khoản nợ hay không. Một số sàn có thể hỗ trợ thu hồi vốn nhưng thường phải trả phí. Trường hợp không thu được nợ, người cho vay có thể khởi kiện nhưng giải pháp này không tối ưu nếu giá trị khoản nợ là quá nhỏ so với chi phí, thời gian và công sức bỏ ra theo đuổi kiện tụng.
Thứ tư, vì các giao dịch cho vay được tiến hành trực tuyến nên không thể loại trừ rủi ro sàn giao dịch bị tấn công (hack). Vì vậy, trên lý thuyết, người cho vay cần tìm hiểu và đánh giá được các biện pháp bảo vệ dữ liệu của sàn giao dịch. Nhưng với nhiều người bình thường thì chuyện này là không tưởng, họ đành phó mặc cho may rủi.
Thứ năm, việc thành lập một sàn giao dịch kết nối trực tuyến người vay và cho vay hiện nay đã trở nên đơn giản, nhanh chóng, thậm chí chỉ trong một đêm. Trong số này, không loại trừ nhiều sàn “ma”, lập ra với mục đích lừa đảo. Do đó, rủi ro với người cho vay là không biết được sàn nào là hợp pháp, được cấp phép bởi cơ quan chức năng (kèm với “tóc” để nắm khi lâm sự).
Quản như thế nào?
Với những rủi ro nêu trên và xét đến bối cảnh là ngành đang phát triển nhanh, có nhiều tiềm năng nên khuôn khổ chế tài của cơ quan chức năng liên quan đến cho vay ngang hàng cần hướng đến những mục tiêu sau đây.
Mục tiêu thứ nhất là bảo vệ quyền lợi hợp pháp của khách hàng, đặc biệt là người cho vay. Các chế tài cần buộc các doanh nghiệp cho vay ngang hàng cung cấp công khai và đầy đủ mọi thông tin liên quan trên trang web của mình, gồm những thông tin cơ bản như giấy phép hoạt động. Đặc biệt, cần nêu rõ những lợi ích, quyền lợi và rủi ro cho vay ngang hàng (gồm rủi ro mất vốn; khả năng được bảo hiểm, bồi hoàn vốn từ sàn giao dịch; người vay có được quyền trong một thời gian nhất định được hủy hợp đồng vay tiền mà không bị phạt hay không...). Người cho vay cũng cần được cảnh báo đầy đủ và đúng mức về rủi ro tín dụng của người vay. Những điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho cả người vay và cho vay có các quyết định đúng đắn, thu hút thêm nhiều khách hàng sử dụng P2P.
Mục tiêu thứ hai là thúc đẩy sự cạnh tranh hữu hiệu, lành mạnh trong ngành cho vay ngang hàng. Theo hướng này, các chế tài cần đặt ra một số tiêu chuẩn tối thiểu mà mọi sàn giao dịch P2P phải đáp ứng được, gồm tình hình tài chính thế nào thì được coi là lành mạnh, mức vốn tối thiểu phải có tương ứng với quy mô vốn vay mà nó huy động nhằm làm khách hàng (người vay và cho vay) tin tưởng rằng sàn giao dịch mà họ giao dịch hôm nay vẫn còn đó vào ngày mai, loại bỏ được những sàn/doanh nghiệp hoạt động mang tính chụp giật, lừa đảo.
Mục tiêu thứ ba là bảo đảm sự phát triển của ngành trong vòng kiểm soát. Việc quản lý nhà nước cần tính tới khả năng, ví dụ, khi được chính thức công nhận và hợp pháp hóa thì ngành cho vay ngang hàng ở Việt Nam sẽ có sự phát triển bùng nổ về quy mô và số lượng, tạo ra rủi ro lớn cho các bên tham gia, như đã diễn ra ở Hàn Quốc. Chỉ trong chưa đầy một năm, từ tháng 3 đến tháng 12-2016, giá trị vốn cho vay qua các sàn giao dịch tại Hàn Quốc đã tăng từ 72 tỉ won lên 312 tỉ won, buộc cơ quan quản lý nước này  sau đó phải đưa ra quy định hạn chế nhằm làm nguội thị trường. Cụ thể, nhà đầu tư nhỏ lẻ chỉ được đầu tư không quá 10 triệu won, nhà đầu tư có chứng nhận chỉ được đầu tư không quá 40 triệu won.
Mục tiêu thứ tư là bảo đảm các sàn giao dịch phải xây dựng và duy trì cơ chế kiểm soát rủi ro, xử lý khủng hoảng một cách minh bạch và chân thực, và có quy trình xử lý một cách đúng đắn tiền huy động của khách hàng. Các quy định cần có gồm tuân thủ quản lý, phòng chống rửa tiền, an ninh mạng, và các biện pháp phòng ngừa rủi ro, cơ chế và nguồn lực xử lý các tình huống như mất khả năng thanh toán, các biện pháp khẩn cấp trong trường hợp xảy ra trục trặc, đình trệ hoạt động.
Và mục tiêu cuối cùng là bảo đảm các doanh nghiệp cho vay ngang hàng phải xử lý một cách đúng đắn các khó khăn tài chính và khiếu nại của khách hàng, cả người vay và cho vay. Điều này để tránh tình trạng “đem con bỏ chợ” của nhiều sàn giao dịch xảy ra ở đây đó trên thế giới, đẩy rủi ro hoàn toàn về phía khách hàng. 

Monday 8 October 2018

Nghịch lý giúp sức cho Ngân hàng Nhà nước (Bài đăng trên CafeF, 10/9/2018)

http://cafef.vn/nghich-ly-giup-suc-cho-ngan-hang-nha-nuoc-20181009102406656.chn

Đã qua 9 tháng của năm 2018 trong bối cảnh có nhiều bất lợi song Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vẫn đang kiểm soát khá tốt ba biến số vĩ mô quan trọng và thường tương khắc với nhau là tỷ giá, lãi suất và lạm phát.
Cụ thể hơn, dù chịu sức ép lớn từ những tác động bất lợi của điều kiện bên ngoài như chiến tranh thương mại và sự mạnh lên của đồng USD tương ứng với đó là sự yếu đi của nhiều bản tệ khác trong khu vực và thế giới, đặc biệt là Nhân dân tệ (CNY), tỷ giá VND/USD chỉ tăng dưới 3% từ đầu năm đến nay, một mức chấp nhận được nếu so với mức yếu đi đến hàng chục điểm phần trăm của nhiều đồng tiền của các nền kinh tế mới nổi khác.
Với lạm phát, mức tăng cũng đang được khống chế trong phạm vi 4%, ngưỡng mà Quốc hội đặt ra cho Chính phủ. Lạm phát được kiềm chế ở mức này cũng có thể được gọi là một thành công khi giá cả hàng hóa thế giới đã phục hồi và có chiều hướng tăng, nhất là giá xăng dầu. Trong khi đó, như đã thấy, dù tỷ giá đã được NHNN kiềm chế nhưng mức tăng gần 3% cho đến nay cũng phần nào tạo áp lực tăng giá cả trong nước qua kênh nhập khẩu.
Về lãi suất, sau một giai đoạn khá dài lãi suất liên ngân hàng được duy trì ở mức thấp, hiện đã có những dấu hiệu rõ ràng cho thấy lãi suất đang có xu hướng đi lên và điều này dường như đã lan sang thị trường vay mượn giữa ngân hàng và doanh nghiệp, cá nhân. Tuy nhiên, áp lực tăng lãi suất có lẽ chưa ở mức lớn như được thể hiện ở lãi suất huy động cao nhất hiện nay cũng chỉ quanh quẩn 8%/năm với kỳ hạn 1 năm, nhưng cũng chỉ ở một ít ngân hàng thương mại cổ phần (TMCP) nhỏ, trong khi các ngân hàng TMCP khác chỉ điều chỉnh tăng nhẹ lãi suất huy động.
Như vậy, dù các biến số vĩ mô trên đã có những thay đổi theo hướng bất lợi từ quan điểm ổn định – với nghĩa là không biến động đáng kể – nhưng rõ ràng là duy trì được những biến số có tính tương khắc này ở mức như hiện nay, về lý thuyết, không phải là điều đơn giản, tự nhiên có. Câu hỏi đặt ra đâu là yếu tố hậu thuẫn, giúp sức cho NHNN trong việc kiểm soát tương đối thành công những biến số này?
Để trả lời câu hỏi trên, trước tiên cần xuất phát từ công cụ chính sách của ngân hàng trung ương nói chung, mà ở Việt Nam chính là NHNN. Về cơ bản, công cụ chính sách mang tính kinh tế chủ yếu của NHNN là tăng hay giảm cung tiền đồng. Nếu muốn hỗ trợ tăng trưởng kinh tế thì NHNN sẽ phải hạ lãi suất, tức làm tăng cung tiền (giả sử các yếu tố khác, như chính sách của Chính phủ, là không thay đổi). Nhưng việc này sẽ làm gia tăng áp lực lên lạm phát, buộc NHNN nếu muốn kiềm chế lạm phát thì phải tăng lãi suất, tức giảm cung tiền đồng. Gia tăng cung tiền để hỗ trợ tăng trưởng cũng sẽ làm suy yếu bản tệ nên nếu muốn bảo vệ tỷ giá thì NHNN thường phải giảm cung tiền đồng (bán ngoại tệ từ quỹ dự trữ ngoại hối cũng chỉ là một hình thức giảm cung tiền đồng).
Như vậy, về lý thuyết, với cùng một mức tăng cung tiền, sẽ rất khó cho NHNN đạt được cùng lúc nhiều mục tiêu như hỗ trợ tăng trưởng, kiềm chế lạm phát, ổn định tỷ giá. Giả sử các điều kiện khác không thay đổi thì để đạt được cùng lúc nhiều mục tiêu này, NHNN sẽ phải dùng đến các công cụ phi kinh tế, gồm các biện pháp hành chính như kiểm soát vốn (capital control), ưu tiên cấp tín dụng cho một số lĩnh vực chọn lọc, đặt trần và sàn tỷ giá, lãi suất v.v… Tuy nhiên, vì là các biện pháp phi kinh tế nên chúng chỉ là những biện pháp ngắn hạn bởi các chủ thể kinh tế sẽ tìm ra các lỗ hổng để "lách", sớm muộn sẽ làm mất hiệu lực của những biện pháp này. Chưa kể là nhiều biện pháp không mang tính thị trường sẽ bị các nước khác chỉ trích, khiếu nại.
Trên thực tế, các công cụ phi kinh tế trên đều đã được NHNN thi hành sớm thì cũng đã vài năm nay, nên về nguyên tắc thì chúng cũng không thể phát huy tác dụng mãi hoặc mang lại tác dụng đột biến theo hướng tích cực. Điều này có nghĩa là có thể đã có những yếu tố hỗ trợ nằm ngoài khả năng và phạm vi kiểm soát của NHNN.
Yếu tố hàng đầu phải kể đến là tăng trưởng kinh tế. Tốc độ tăng trưởng quý 3 năm nay đã lớn hơn quý 2, đưa tốc độ tăng trưởng 9 tháng đầu năm đạt gần 7% so cùng kỳ năm trước. Đây là một tốc độ tăng trưởng rất cao, đặc biệt trong bối cảnh nhiều thử thách như hiện nay. Nếu xét đến sự tăng trưởng chậm lại rõ rệt của cung tiền như được thể hiện qua tăng trưởng tín dụng 9 tháng đầu năm thì có thể nói không quá việc đạt được này là một nghịch lý, theo tư duy thông thường là nền kinh tế Việt Nam phụ thuộc nặng nề vào tín dụng ngân hàng nên để tăng trưởng cao hơn cần có tăng trưởng tín dụng cao hơn.
Dù nghịch lý trên có thể có nguyên nhân từ các biện pháp cải cách môi trường kinh doanh mạnh mẽ của Chính phủ, sự phát triển của thị trường chứng khoán cung cấp vốn cho doanh nghiệp ngoài kênh tín dụng ngân hàng, hay sự tiếp tục tăng trưởng của khu vực FDI và dòng vốn FDI chảy vào nền kinh tế v.v… nhưng rõ ràng là việc nền kinh tế không còn đòi hỏi ngành ngân hàng phải liên tục mở rộng tín dụng để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng trên hết đã là một yếu tố rất thuận lợi cho việc điều hành chính sách của NHNN.
Cụ thể hơn, do không còn bị thúc ép phải mở rộng tín dụng đáp ứng nhu cầu tăng trưởng như trước đây nên NHNN đã có điều kiện để duy trì một chính sách tiền tệ thận trọng hơn, thể hiện qua mức tăng trưởng tín dụng và huy động của ngành ngân hàng trong 9 tháng đầu năm đều ở mức thấp hơn đáng kể so với cùng kỳ năm trước. Đến lượt nó, tăng trưởng cung tiền có chừng mực đã không làm gia tăng quá mức áp lực đồng thời lên lạm phát và tỷ giá, do đó cũng không làm gia tăng quá mức lãi suất, như đã được chứng kiến. Nói cách khác, NHNN thi hành được chính sách điều hành "thận trọng và linh hoạt" – vốn vẫn được coi là chìa khóa cho sự thành công của NHNN – cũng là nhờ có sự giảm phụ thuộc của nền kinh tế vào tín dụng ngân hàng.
Tóm lại, sự thành công về mặt chính sách của NHNN có sự đóng góp mang tính quyết định từ những yếu tố hỗ trợ bên ngoài (phạm vi của NHNN). Hàm ý chính sách có thể rút ra được ở đây là để ổn định kinh tế vĩ mô một cách bền vững, trong dài hạn thì trước hết cần thực thi những biện pháp và công cụ mang tính kinh tế để giảm thiểu sự phụ thuộc của nền kinh tế vào tín dụng ngân hàng. Điều này đặc biệt đúng khi NHNN chưa được độc lập với Chính phủ nên sẽ không thể "đứng ngoài cuộc" khi Chính phủ cần giải pháp kích thích tăng trưởng ngắn hạn.

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).