http://cafef.vn/tai-chinh-quoc-te/hau-truong-cua-viec-pha-gia-nhan-dan-te-20150813140604335.chn
Trong một động thái có
thể nói chưa có tiền lệ trong hàng thập kỷ nay, Trung Quốc đã liên tục phá giá
đáng kể đồng Nhân dân tệ (CNY) trong 2 ngày vừa qua với mức phá tổng cộng lên đến
3,5 điểm phần trăm. Điều không kém phần kịch tính là ngay trong lần phá giá thứ
nhất ở mức 1,9 điểm phần trăm hôm 11/8, Trung Quốc đã trấn an thị trường rằng
đây là lần điều chỉnh duy nhất rồi thôi, để rồi ngay ngày hôm sau, 12/8, Trung
Quốc lại tiếp tục phá giá thêm 1,6 điểm phần trăm nữa, đồng thời cũng không
quên lặp lại lời trấn an rằng sẽ không có lần phá giá nữa.
Trong lần phá giá đầu
tiên thị trường còn bán tín bán nghi rằng hành động này chỉ mang tính chính trị,
tính biểu tượng là chính. Vì Trung Quốc đang nhắm đến ngôi vị là đồng tiền dự
trữ trong rổ tiền tệ SDR của IMF nên họ buộc phải tự do hóa tài khoản vốn và tự
do hóa tỷ giá CNY. Quả thật, IMF thậm chí còn bầy tỏ sự hoan nghênh với hành động
này của Trung Quốc. Nhưng đến lần phá giá thứ hai, thực tếTrung Quốc đã làm thế
giới hoảng sợ xen lẫn bực tức, bất an.
2 đợt phá giá liên tiếp
này dường như đã cho thấy có điều gì đó thực sự không ổn với Trung Quốc, mặc dù
nước này cho biết mục đích chỉ là để tỷ giá CNY phản ánh sát sao điều kiện thị
trường hơn. Bề ngoài, đúng là Trung Quốc vẫn đang là một người khổng lồ khỏe mạnh,
với việc duy trì được một tốc độ tăng trưởng kinh tế thuộc hạng nhanh nhất thế
giới, với dự trữ ngoại hối khủng, và khả năng can thiệp và kiểm soát chặt chẽ
những biến động kinh tế và chính trị của nhà cầm quyền.
Tuy nhiên, thực chất, nền
kinh tế nước này đang rệu rạo với những chỉ số kinh tế kém cỏi hơn như xuất khẩu
sụt giảm mạnh trong những tháng gần đây (tới 8,3% trong tháng 7 so cùng kỳ năm
trước), chỉ số giá cả của nhà sản xuất tiếp tục nằm trong vùng giảm phát liên tục
4 năm liền. Trong khi đó, CNY đã lên giá thực khá lớn so với USD và các ngoại tệ
chủ chốt như JPY và Euro (tỷ giá thực hiệu dụng của CNY đã tăng 13% trong vòng
1 năm qua), đòi hỏi Trung Quốc phải bán dự trữ ngoại hối để kìm nén tỷ giá,
trong khi việc này lại làm hại xuất khẩu của Trung Quốc, đặc biệt xuất khẩu
sang Nhật và châu Âu. Kết cục là, ngoài chuyện xuất khẩu sụt giảm mạnh trong
tháng 7 vừa qua, mức xuất siêu của Trung Quốc đã thấp hơn dự đoán của giới quan
sát rất nhiều. Bên cạnh đó, đòn bẩy tín dụng quá cao trong nền kinh tế Trung Quốc,
vốn là sách lược của chính phủ, và những biến động hoảng loạn gần đây trên thị
trường chứng khoán Trung Quốc càng làm cho việc phá giá trở nên không thể tránh
khỏi. Điều ngạc nhiên, có chăng, chỉ là tại sao bây giờ Trung Quốc mới chịu phá
giá?
Để trả lời được câu hỏi
này, phải lật tìm lại chính sách tiền tệ của Trung Quốc trước đây. Họ đã từng
muốn có một đồng tiền mạnh để tái cơ cấu lại nền kinh tế, chuyển từ khuyến
khích các ngành sản xuất cho xuất khẩu có giá trị gia tăng thấp sang phát triển
thị trường tiêu thụ trong nước với một bản tệ có sức mua lớn hơn. Hơn nữa, một
đồng bản tệ mạnh sẽ giúp các doanh nghiệp Trung Quốc vay mượn để đầu tư thuận lợi
hơn ra nước ngoài, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp và chính phủ nước
ngoài sử dụng nhiều hơn nữa CNY. Nói cách khác, CNY mạnh hơn sẽ củng cố được vị
trí quốc tế của nó và giúp Trung Quốc nhanh chóng thực hiện được giấc mơ quốc tế
hóa CNY của họ và biến nó thành đồng tiền dự trữ của IMF, trước khi trở thành đồng
tiền dự trữ quốc tế.
Đến đây, câu hỏi tiếp
theo là liệu phá giá CNY có cứu vãn được gì nhiều cho Trung Quốc không?
Đương nhiên, khi CNY yếu hơn, nó sẽ kích
thích xuất khẩu tăng trưởng trở lại, phần nào giúp nước này duy trì được đà
tăng trưởng. Tuy nhiên, vấn đề đáng quan ngại chính ở Trung Quốc, như đã nói ở
trên, không phải nằm ở chuyện CNY bị đánh giá cao quá mức, mà là chuyện vay mượn
quá đà của doanh nghiệp và người dân nước này. Nên việc phá giá chỉ là một phần
của giải pháp. Ngược lại, hành động cứu vớt thị trường chứng khoán “vô tiền
khoáng hậu” của chính phủ Trung Quốc như vừa qua lại làm tăng mạnh việc vay mượn
hơn nữa trong nền kinh tế gắn với đà phục hồi của chỉ số chứng khoán nước này.
Ngoài ra, Trung Quốc
khác với các nước đã và đang phát triển khác ở quy mô khủng của nó. Bởi vậy,
hành động phá giá CNY chắc chắn sẽ không để các nước khác khoanh tay ngồi nhìn
xuất khẩu của Trung Quốc chiếm mất công ăn việc làm của mình. Do đó, các nước
này, bao gồm cả Nhật, EU, và thậm chí cả Mỹ cũng sẽ tiếp tục làm suy yếu bản tệ
của mình (với Mỹ sẽ là sự trì hoãn hơn nữa việc tăng lãi suất), tạo ra một cuộc
chiến tranh tiền tệ mới, đến lượt nó lại lôi Trung Quốc sâu thêm vào cuộc chơi
(chỉ kết thúc khi nền kinh tế toàn cầu phục hồi lại).
Do đó, cuộc đua phá giá
bản tệ trên thế giới (làm cho xuất khẩu của Trung Quốc không dễ tăng lên) kết hợp
với quả bom nổ chậm là mức nợ nần cao trong nước có nhiều khả năng sẽ buộc
Trung Quốc hạ cánh cứng với nhiều đổ vỡ. Và cũng vì quy mô khủng của nó, nên sự
hạ cánh cứng đau đớn của Trung Quốc cũng sẽ làm đau cả nền kinh tế toàn cầu, tạo
ra một viễn cảnh không mấy dễ chịu trong thời gian tới.
Subscribe to:
Post Comments (Atom)
Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ
(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU
18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.
17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)
16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)
15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)
14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)
13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)
12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)
11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)
10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)
9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)
8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)
7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)
6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)
5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).
3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)
2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).
1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).
No comments:
Post a Comment