Wednesday 19 August 2015

“Hóa giải” 3 mối lo của xuất nhập khẩu khi VND mất giá (Bài đăng trên Doanh nhân Sài Gòn, 19/8/2015, tiêu đề do báo đặt)

http://www.doanhnhansaigon.vn/van-de/hoa-giai-3-moi-lo-cua-xuat-nhap-khau-khi-vnd-mat-gia/1090966/

(Bản gốc dài hơn, chi tiết hơn và... tất nhiên là hay hơn)
 
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) lại có thêm một bước đi quyết đoán nữa khi bất ngờ tăng cả tỷ giá bình quân liên ngân hàng lẫn nới biên độ biến động tỷ giá bình quân liên ngân hàng thêm 1 điểm phần trăm nữa, chính thức cho phép VND mất giá thêm 2% từ mức trần của đợt điều chỉnh tuần trước là 22.106 VND/USD.
 
Tính từ đầu năm đến thời điểm điều chỉnh tỷ giá tuần trước của NHNN thì VND đã được cho phép yếu đi ít nhất là 3 điểm phần trăm. Và đợt phá giá VND ngày 19/8 của NHNN đã cho phép VND mất giá thêm tới 2 điểm phần trăm nữa. Dù rằng, so với mức mất giá của các bản tệ khác từ năm ngoái đến nay, mức mất giá VND 5% xem ra vẫn chưa thấm gì, nhưng rõ ràng là việc phá giá VND là có lợi cho xuất khẩu.
 
Có luồng ý kiến cho rằng kinh tế Việt Nam là một nền kinh tế gia công, phải nhập nhiều nguyên vật liệu (tính bằng USD) nên khi VND mất giá sẽ làm cho giá nhập khẩu đầu vào tính ra VND đắt đỏ hơn, làm tăng chi phí sản xuất và giá thành sàn phẩm. Do đó, phá giá VND không giúp ích gì nhiều cho các doanh nghiệp nhập khẩu, thậm chí còn gây hại.
 
Tuy nhiên, dù cho có nhập khẩu đại bộ phận nguyên vật liệu dùng trong sản xuất thì chi phí nhập khẩu chỉ tăng lên khi quy ra VND và khi VND mất giá, chứ chi phí nhập khẩu là không đổi nếu tính bằng USD.
 
Ví dụ, doanh nghiệp gia công phải nhập khẩu 90 USD để sản xuất một cái áo khoác có giá thành 100 USD và giá bán là 110 USD. Khi VND bị mất giá 5% (giả sử từ 21.000 VND/USD lên 22.050 VND/USD) thì đúng là chi phi nhập khẩu nguyên liệu sẽ tăng lên tương ứng 5% nếu tính theo VND, từ 1,89 triệu VND lên 1,985 triệu VND (tăng 95 nghìn VND). Nhưng nếu tính bằng USD thì giá trị nhập khẩu này vẫn chỉ là 90 USD, không thay đổi, và giá xuất khẩu vẫn là 110 USD, không thay đổi.
 
Tương tự, doanh thu của doanh nghiệp cũng sẽ tăng lên tương ứng (5%) nếu tính theo VND, vì khi xuất khẩu, doanh nghiệp thu về USD.
 
Cũng có lo ngại rằng khi VND bị mất giá thì tuy doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có lợi nhưng các bạn hàng nhập khẩu sẽ nhanh chóng ép phía Việt Nam phải hạ giá bán cho họ để cùng hưởng lợi từ việc Việt Nam điều chỉnh tỷ giá. Điều này có thể xảy ra trên thực tế, tuy nhiên thông thường mức hạ giá của Việt Nam không bao giờ đúng bằng mức mất giá của VND mà thường nhỏ hơn. Tức, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam có thể hưởng ít lợi hơn chứ không mất hoàn toàn.
 
Chưa kể, dù có phải hạ giá bán để chia sẻ mối lợi với đối tác thì doanh nghiệp Việt Nam không chỉ vẫn được hưởng lợi trực tiếp như nói ở trên, mà còn được hưởng những mối lợi gián tiếp, như nhờ có điều kiện hạ được giá bán cho đối tác nên đối tác có thể mua thêm với số lượng lớn hơn (nhu cầu tăng khi giá giảm). Kéo theo, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam lại có thể cắt giảm thêm chí phí sản xuất và giảm thêm nữa giá thành, nhờ kinh tế quy mô (quy mô lớn hơn thì chi phí sản xuất cho một sản phẩm sẽ giảm đi). Từ đó, biên độ lợi nhuận của doanh nghiệp xuất khẩu còn được cải thiện hơn nữa.
 
Cuối cùng, có mối lo rằng do USD tiếp tục tăng giá và các đồng tiền khác tiếp tục mất giá so với USD nên sẽ gây hại cho doanh nghiệp xuất khẩu. Bởi vì, khi ấy những nhà mua hàng ở những nước như Nhật Bản, châu Âu,... sẽ giảm bớt lượng đặt hàng do lo sợ càng mua càng lỗ. Theo đó, trong thời gian tới, có khả năng khách hàng sẽ giảm đơn hàng cũng như sản lượng đặt hàng.
 
Ý kiến trên là đúng, nhưng không liên quan gì đến việc phá giá VND của Việt Nam cả. Dù Việt Nam không phá giá thì việc các đồng tiền của Nhật và Châu Âu vẫn sẽ yếu đi so với USD, nhất là khi FED nâng lãi suất ở Mỹ, và buộc các doanh nghiệp nhập khẩu ở đó phải giảm lượng hàng nhập khẩu, ảnh hưởng tiêu cực đến doanh thu (bằng USD) của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam.
Nhưng ngược lại, khi Việt Nam phá giá VND, điều này sẽ hỗ trợ phần nào cho doanh thu và lợi nhuận tính bằng VND của doanh nghiệp xuất khẩu, giúp họ có thêm điều kiện để trụ lại với thị trường. Do đó, phá giá VND trong trường hợp này là tốt hơn so với không phá giá!

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).