Friday, 21 August 2015

Những kịch bản tỷ giá (Bài đăng trên Đại biểu Nhân dân, 22/8/2015)

http://www.daibieunhandan.vn/default.aspx?tabid=75&NewsId=356673


Phản ứng với việc Trung Quốc phá giá đồng nhân dân tệ (NDT), trong các ngày 11 và 19.8, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nới biên độ biến động tỷ giá bình quân liên ngân hàng lên 3% và điều chỉnh tỷ giá liên ngân hàng lên thêm 1% nữa. Tuy vậy, điều gì sẽ xảy ra với tỷ giá Việt Nam đồng (VNĐ) nếu Trung Quốc tiếp tục phá giá NDT hoặc Mỹ sẽ nâng lãi suất USD lên vào những tháng tới.

Mặc dù Trung Quốc tuyên bố sẽ không phá giá NDT nữa và không có lý do gì để tiếp tục làm thế nhưng khả năng nước này tiếp tục phá giá cũng không thể loại bỏ hoàn toàn, ít nhất vì chuyện họ đã nuốt lời ngay trong lần phá giá đầu tiên và thứ hai tuần trước (đều tuyên bố không phá giá nữa để rồi vẫn tiếp tục phá giá). Chưa kể, những đối tác thương mại lớn của Trung Quốc như Nhật và EU cũng có khả năng đáp trả lại hành động phá giá của Trung Quốc mà bị nhiều người coi là khơi mào cho chiến tranh tiền tệ. Đến lúc đó, thành quả phá giá tuần trước của Trung Quốc sẽ bị mai một trước đồng euro và Yen yếu hơn buộc Trung Quốc phải cân nhắc thêm các đợt phá giá mới để giành lợi thế cho xuất khẩu của mình.

Về khả năng Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) nâng lãi suất USD, việc Trung Quốc nâng lãi suất NDT với mức độ lớn đã đẩy Fed vào tình thế khá khó khăn. Nếu Fed vẫn quyết định nâng lãi suất trong tháng 9  hoặc vào thời gian cuối năm thì không chỉ làm tổn thương quá trình hồi phục kinh tế vốn còn khá mong manh của Mỹ vì một đồng USD mạnh lên (so với NDT) sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến xuất khẩu, tăng trưởng và công ăn việc làm của nước này. Tình huống này càng trở nên nghiêm trọng hơn nếu Trung Quốc tiếp tục phá đồng NDT trong những tuần tới, tháng tới.

Tuy vậy, dù Fed đang gặp tình thế bất lợi trong việc nâng lãi suất của mình thì nhiều người tin rằng Fed vẫn sẽ nâng lãi suất trong những tháng tới. Theo một cuộc khảo sát của Reuters với các nhà kinh tế học mới đây, có hơn một nửa số người được hỏi cho rằng Fed sẽ nâng lãi suất vào tháng 9 hoặc tháng 12 năm nay. Những yếu tố cơ sở cho các dự đoán này là tình trạng công ăn việc làm và mức tăng lương khả quan hồi tháng 7, cũng như tăng trưởng kinh tế đã tăng tốc trong quý II so với quý I bị ảnh hưởng bởi thời tiết xấu.

Trong bối cảnh những yếu tố ngoại lai bất trắc như trên, có thể thấy là kịch bản đỡ xấu nhất cho NHNN là Trung Quốc thôi không phá giá NDT nữa và Fed chưa tăng lãi suất vào tháng 9. Trong kịch bản này, NHNN không phải chịu thêm áp lực phá giá VNĐ đến từ hai phía: từ Trung Quốc bởi NDT tiếp tục suy yếu và từ Mỹ bởi USD tháo chạy khỏi Việt Nam. Tuy áp lực phá giá VNĐ dồn nén từ mấy tháng trước và được khuếch đại bởi ba đợt phá giá liên tiếp của Trung Quốc trong tuần qua đã được giải tỏa phần nào nhờ những động thái gần đây của NHNN nhưng áp lực vẫn còn lớn (căn cứ vào mức độ lên giá của VNĐ so với các đồng tiền khác trong khu vực và trên thế giới). Do đó, NHNN có thể vẫn cần thiết phải phá VNĐ thêm nữa kể cả trong kịch bản khả quan nhất này. Nhưng nếu xét đến việc ưu tiên, bảo toàn tính ổn định, không làm xáo trộn quá lớn thị trường (nếu có) của mình thì NHNN có thể tiếp tục bán ngoại hối để neo giữ tỷ giá VNĐ trong phạm vi hiện tại thêm một thời gian nữa trước khi có những diễn biến mới xảy đến.

Kịch bản xấu hơn kịch bản trên là Trung Quốc tuy không phá giá nữa nhưng Fed tăng lãi suất tháng 9 hoặc chậm nhất là tháng 12 tới. Hậu quả của việc này lên tỷ giá VNĐ là không thể xem nhẹ, như được chứng kiến ở diễn biến tỷ giá của những bản tệ khác đã và đang tiếp tục yếu đi khi đích nâng lãi suất của Fed ngày càng đến gần hơn. Với tỷ giá VNĐ, khi Fed nâng lãi suất thì áp lực lên VNĐ chỉ có tăng lên chứ không giảm đi. Nên trong trường hợp này, tỷ giá VNĐ đi về đâu sẽ phụ thuộc vào NHNN có muốn ưu tiên giữ ổn định tỷ giá hay không và thực lực bảo vệ tỷ giá của họ đến đâu.

Một kịch bản có kết cục tương tự kịch bản trên là Trung Quốc tiếp tục phá giá nhưng Fed chưa tăng lãi suất vào tháng 9 hay tháng 12 này. Do Fed không tăng lãi suất nên không kích hoạt sự mất giá của nhiều đồng bản tệ trên thế giới. Nhưng hành động phá giá thêm của Trung Quốc sẽ có tác động tương tự như hành động tăng lãi suất của Fed bởi nó sẽ kéo theo sự phá giá của các đồng bản tệ khác nhằm tự vệ trước triển vọng hàng hóa và công ăn việc làm của họ bị lấn lướt bởi hàng hóa Trung Quốc. Trong hoàn cảnh này, vì quyền lợi của cả nền kinh tế có lẽ NHNN sẽ phải cân nhắc làm cho VNĐ yếu đi thêm ở mức độ nào đó từ mức hiện tại.

Kịch bản xấu nhất là Trung Quốc tiếp tục phá giá đồng thời với việc Fed nâng lãi suất ngay trong tháng 9 này. Lúc đó, dù muốn hay không thì nhiều nước sẽ bị cuốn vào một cuộc đua, chủ động và bị động phá giá mà thực chất là chiến tranh tiền tệ mặc dù không ai muốn nó xảy ra. Khi đó, Việt Nam chỉ là một kinh tế quá nhỏ, quá yếu ớt để biến mình thành một ốc đảo bình yên đứng vững giữa cơn lốc phá giá của các nước xung quanh và trên thế giới.

No comments:

Post a Comment

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).