14/4/2012
Ngày 11/4, Thống
đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã quyết định hạ trần lãi suất huy động thêm 1 điểm
phần trăm, xuống còn 12%/năm. Lý giải cho hành động này, Thống đốc cho biết
thanh khoản của các ngân hàng đã khả quan hơn đáng kể so với cuối năm 2011.
NHNN cho biết: “Qua
kênh mua ngoại tệ, NHNN đã bơm ra thị trường khoảng 130.000 tỷ đồng; qua kênh
cho vay hỗ trợ thanh khoản bơm ròng ra khoảng 30.000 tỷ đồng và thêm khoảng
30.000 tỷ đồng bơm cho một số chương trình cho vay tái cấp vốn có mục tiêu. Đồng
thời với việc bơm tiền ra, NHNN đã phát hành tín phiếu NHNN (kỳ hạn 6 tháng),
thu về hơn 30.000 tỷ đồng. Tổng số thanh khoản của các NH hiện đang có tương
đương tổng số tiền mà NHNN bơm ròng thời gian qua”.
Như vậy, lượng
cung tiền trong quý I/2012 đã tăng ròng 160 nghìn tỷ đồng. Với tổng cung tiền
M2 tại thời điểm 12/2011 là khoảng 2.850 nghìn tỷ đồng, thì lượng cung tiền quý
I này đã tăng khoảng hơn 5,5% so với tổng cung tiền có đến tháng 12/2011.
Số liệu từ NHNN
cũng cho thấy tín dụng toàn ngành tính tới cuối quý I giảm 2,4%. Nếu loại trừ một
số ngân hàng tăng tín dụng ảo (nhằm có số dư nợ cao cuối năm 2011, chuẩn bị cho
mức kế hoạch 2012) trong tháng 12-2011 và giảm trong tháng 1-2012 (khoảng 7 ngân
hàng), mức giảm tín dụng toàn ngành quý I khoảng 1,4%, nhưng huy động toàn
ngành tăng 1,5-1,7%.
So sánh hai con số,
5,5% là tốc độ tăng cung tiền của NHNN qua hệ thống ngân hàng và 1,5%-1,7% là tốc
độ tăng huy động vốn của hệ thống ngân hàng từ nền kinh tế, thì có thể thấy
thanh khoản hệ thống ngân hàng được cải thiện chủ yếu bởi nguồn cung tiền của
NHNN, chứ không phải là do tăng huy động từ dân.
Một số chi tiết
đáng lưu ý khác là, cũng theo NHNN tiết lộ, kênh trái phiếu chính phủ đã phát
hành thành công 30 nghìn tỷ đồng, còn kênh tín phiếu của NHNN đã phát hành được
45 nghìn tỷ đồng. Trong khi đó, tiền gửi của tổ chức tín dụng tại NHNN đạt 60
nghìn tỷ đồng, cao hơn cả dự trữ bắt buộc là 15-20 nghìn tỷ đồng.
Từ những con số
trên cũng có thể rút ra mấy nhận xét quan trọng. Thứ nhất, NHNN quả thực đã
không chỉ “ra lệnh suông” cho các ngân hàng thương mại giảm lãi suất, mà thực tế
đã “xắn tay” vào bằng việc tăng cung tiền tạo nguồn cho các ngân hàng thương mại
cho vay lại. Thứ hai, tổng số thanh khoản trong hệ thống ngân hàng đã tăng mạnh
từ 2 nguồn trên như vậy nhưng mức cho vay tín dụng toàn hệ thống vẫn giảm so với
12/2011 (giảm 1,4%), trong khi các ngân hàng không biết làm gì hơn là đem nguồn
thanh khoản mới này gửi ngược lại vào NHNN (vượt dự trữ bắt buộc) và mua trái
phiếu Chính phủ. Điều này chứng tỏ sự tồn tại của vấn đề bẫy thanh khoản ở
trong hệ thống ngân hàng Việt Nam là có thật, và thật sự là nghiêm trọng.[1] Thứ
ba, đầu tư công vô hình trung tiếp tục “bóp nghẹt” thêm đầu tư từ khu vực tư
nhân, do nguồn vốn từ hệ thống ngân hàng nói chung và NHNN nói riêng đã đổ thêm
vào trái phiếu Chính phủ chứ không đổ ra nền kinh tế tư nhân. Thứ tư, NHNN đã ý
thức được rằng khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế đã giảm sút nghiêm trọng do
sự tồn tại của bẫy thanh khoản nên tăng cung tiền đã không giải quyết được một
cách hiệu quả vấn đề tăng cho vay doanh nghiệp, và vì vậy đã buộc phải hút bớt
tiền về (bằng công cụ tín phiếu), nhằm giảm áp lực lạm phát từ tổng cầu tăng do
cung tiền tăng. Đây là một điều đáng mừng, cho thấy NHNN không mù quáng theo lời
khuyên của một số chuyên gia ra sức nới lỏng cung tiền như là phương cách duy
nhất hạ lãi suất, kích thích ngân hàng cho vay doanh nghiệp hoặc doanh nghiệp
tăng cường vay ngân hàng. Thứ năm, lưu ý rằng, mặc dù NHNN từ cuối năm trước đã
đặt ra mục tiêu tăng cung tiền 14%-15% trong năm nay, nhưng mục tiêu này chắc
chắn không có cơ sở khoa học để đảm bảo rằng khi thực hiện được thì lạm phát sẽ
ở mức 1 con số, còn GDP thì sẽ tăng trưởng ở mức 6%-6,5%. Nay, với tăng trưởng
cung tiền “mới chỉ” đạt 5,5% trong 4 tháng đầu năm, chắc chắn sẽ có người hân
hoan và đề nghị rằng vì mục tiêu cung tiền là 14%-15% nên dư địa cho cung tiền
vẫn còn nhiều, và NHNN nên/phải tiếp tục tăng cung tiền cho đạt được mục tiêu.
Sự thận trọng trong việc hút tiền về như vừa rồi của NHNN gián tiếp cho thấy
NHNN không coi trọng thật sự hoặc quá cứng nhắc với mục tiêu này, và đây, một lần
nữa, là điểm đáng hoan nghênh.
Điều gì sẽ xảy ra
tiếp theo hành động NHNN hạ trần lãi suất huy động xuống thêm còn 12%/năm và tiếp
tục xuống nữa nay mai? Có thể dễ dàng hình dung một viễn cảnh tương tự như tình
trạng vừa rồi, nhưng ở mức độ cao hơn và hậu quả trầm trọng hơn. Lãi suất rốt
cuộc có thể hạ nhưng không đáng kể so với lượng tiền cung ra, và doanh nghiệp,
nhất là vừa và nhỏ, thì vẫn tiếp tục gặp khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng.
Trong khi đó, do cung tiền đã tăng mạnh, nếu NHNN không tích cực thu về thì khả
năng bùng nổ lạm phát trở lại là điều cũng có thể nhìn thấy được.
Để phá vỡ vòng luẩn
quẩn giữa các mục tiêu ràng buộc và tác động qua lại lẫn nhau thế này (lãi suất
giảm, lạm phát giảm, doanh nghiệp vay được nhiều vốn hơn, tăng trưởng kinh tế
cao hơn), NHNN buộc phải gây áp lực ép các ngân hàng thương mại hạ thấp các điều
kiện cho vay hoặc khoanh và gia hạn nợ cũ, tiếp tục cho vay mới. Đây chính là
điều mà NHNN đã và đang tiến hành. Bước đầu tiên, NHNN đã yêu cầu 5 ngân hàng
thương mại có vốn của nhà nước cắt giảm chi phí nhằm giảm lãi cho vay. Bước thứ
hai là yêu cầu các ngân hàng công bố gói giảm lãi suất cho vay và báo cáo cho
NHNN. Bước thứ ba, NHNN sẽ giảm bớt một số hạng mục không khuyến khích cho vay
(bất động sản, tiêu dùng). Bước thứ tư, NHNN “đề nghị” các ngân hàng thương mại
xem xét khả năng tái cơ cấu nợ, gia hạn nợ, giãn nợ cho khách hàng.
Về mặt kỹ thuật,
những biện pháp và bước đi trên của NHNN hòan toàn có thể thực hiện được. Chỉ
có điều là hậu quả để lại của các biện pháp can thiệp hành chính thế này sẽ
không hề nhỏ, trước hết là với khối nợ xấu sẽ tăng mạnh. Không phải tự nhiên mà
các ngân hàng thương mại thắt điều kiện
cho vay. Nay dưới áp lực của NHNN, việc cho vay chắc chắn sẽ được thúc đẩy.
Nhưng rồi ai sẽ là người rốt cuộc sẽ phải giải quyết/gánh chịu cục nợ xấu sẽ trở
nên to hơn rất nhiều sau này?
Tóm lại, việc gấp
rút hạ lãi suất để cứu doanh nghiệp là việc làm có thể hiểu được và thông cảm
được trong hoàn cảnh hiện nay. Nhưng điều này không có nghĩa là phải thực hiện
bằng mọi giá và bằng ý chí cực đoan. Việc đồng thời hạ lãi suất, kiềm chế lạm
phát và phục hồi tăng trưởng cần phải được quán triệt là một việc làm rất khó
và đòi hỏi thời gian, chứ không có cách nào đi tắt, làm gấp mà không phải trả
giá đắt.
[1]
Về khái niệm, bẫy thanh khoản xảy ra
khi NHNN tăng cung tiền nhưng lãi suất cho vay vẫn cao, doanh nghiệp (nhất là
doanh nghiệp vừa và nhỏ hoặc những doanh nghiệp không có khả năng vay trên thị
trường quốc tế), vẫn khó tiếp cận được vốn vay (do điều kiện cho vay được xiết
lại), và các ngân hàng thương mại thì đem gửi ngược lại phần vốn đã huy động được
(từ NHNN hoặc từ dân cư) mà chưa sử dụng được vào tài khỏan dự trữ bắt buộc tại
NHNN hoặc mua trái phiếu Chính phủ.
Về bài này không có gì để nói nhiều ngoài sự tán đồng cao. Chỉ có là về số liệu anh lấy số liệu ở đâu thế anh? Vì theo con số của em thì M2 chỉ tăng 1,44% so với 31/12/2011 thôi anh ạ, chưa hết tăng trưởng tín dụng theo BKHDT thi giam 2,13% thế mới hay. Lẽ ra nên tập trung xử lý các NHTM yếu kém trước rồi bỏ ceiling đi mới ease monetary policy thì có vẻ thuận hơn, nhưng cái kiểu tái cơ cấu NHTM như đang làm thế này cũng ko ổn lắm, thế nên... Kiểu này về trung hạn sức ép devaluation VND sẽ kha khá đấy, nợ xấu cũng sẽ tăng cao. A có tiền thì đầu tư BĐS đi anh ạ :)), lướt sóng được rồi đấy :)). Về tương lai, ai trả lời cho câu hỏi này được anh, hậu quả thì tax-payers là người gánh chứ ai, let's see.
ReplyDeleteHôm trước tớ google thì ra được con số M2 năm 2011 là khoảng 2.850 nghìn tỷ đồng làm tròn. Hình như con số này là tính đến giữa tháng 12/2011. Hôm nay tớ google để tìm lại bài có đăng con số này nhưng không tìm thấy. Đồng chí nào có thời gian thì tìm lại hộ tớ nhé. Tớ cũng sẽ tìm lại.
ReplyDeleteNhưng chuyện tìm lại được hay không con số này cũng không thật quan trọng lắm. Hôm nay tớ vào trang web của ADB thì tìm được con số M2 cho Việt Nam năm 2010 (không biết là tính đến giữa hay cuối tháng 12?), ở mức 2.789,18 nghìn tỷ đồng. Nếu như theo công bố của NHNN thì tăng trưởng M2 của Việt Nam vào năm 2011 (hình như đến giữa hay cuối tháng 12) vào khoảng 9,2%-9,3% gì đó. Như vậy, M2 vào năm 2011 vào khoảng 3.048 hay 3.050 nghìn tỷ. Với mức tăng M2 ròng trong 3 tháng đầu năm nay là 160 nghìn tỷ thì M2 đã tăng 5,2%-5,3% trong quý I này, tức là không khác xa con số 5,5% nêu trong bài.
Với tính toán trên, so với số liệu của đồng chí có trong tay và kể cả những gì NHNN công bố thì có thể đặt ra nghi ngờ về tính chân thực của các con số tương ứng, mà đều là do NHNN công bố cả nhé, chẳng có gì là bí mật hay số liệu insider cả.
Về con số tăng dự nợ tín dụng 1,4% thì là tiết lộ của NHNN như trong bài, tớ không động chạm/thay đổi gì mà chỉ quote ra thôi.
Quên, về chuyện đồng chí khuyên tớ đầu tư bất động sản, tớ quên không nói rằng tớ vẫn chủ trương chỉ đầu tư vào USD và bất động sản ở Việt Nam từ trước đến nay chứ chẳng mấy khi để VND, trừ những giai đoạn ngắn vì đang đợi mua… bất động sản hoặc USD!
ReplyDeleteHồi cuối năm ngoái, khi có một loạt tin về bất động sản hạ giá, một đồng nghiệp người Việt của tớ bảo là phải tranh thủ mua bất động sản thôi, tớ có khuyên là lúc đó chưa phải là đáy, đợi một hai tháng nữa, vì sau đó thế nào cũng có chính sách “cứu” bất động sản (vì nhiều thằng dính vào đó rồi, chúng không để như vậy được). Nay thì tớ phục tớ quá, nói như đi guốc vào bụng NHNN ấy!