Friday 27 April 2012

Tại sao tái cơ cấu hệ thống ngân hàng lại phải tốn phí nhỉ?


Tớ đọc mấy bài viết bởi, hoặc trả lời phỏng vấn của các chuyên gia có đặt ra vấn đề tái cơ cấu cần một phí tổn lên tới dăm tỷ đôla lận. Cứ theo cách nhìn nhận của các chuyên gia này thì dường như việc phải tốn kinh phí là điều đương nhiên; việc chuẩn bị được nguồn kinh phí này là tiền đề cho tái cơ cấu; và nhà nước sẽ là người phải gánh chịu kinh phí này. Có nghĩa là nếu nhà nước không có, không bỏ ra kinh phí thì đừng có nghĩ đến tái cơ cấu hệ thống ngân hàng. Lạ!
Cứ theo tuyên bố của NHNN thì nợ xấu trong toàn hệ thống hiện tại mới là 3,6%. Con số này mới chỉ lớn hơn con số của năm 2011 trên dưới 1 điểm %, tức là tăng thêm khoảng trên dưới 1 tỷ đôla (tổng dư nợ tín dụng theo công bố là 120% GDP gì đó). Việc tái cơ cấu hệ thống ngân hàng trước đó chưa bao giờ được đặt ra một cách nghiêm túc (theo kiểu hoặc là sống, hoặc là chết), và nếu có thì chỉ được nhấn mạnh bởi lý do là có quá nhiều ngân hàng, chứ không phải bởi lý do là nợ xấu ở mức cao và đang tăng lênh nhanh. Và xét cho cùng, nợ xấu trong thời nào cũng có, và có lẽ bình thường ra thì mức nợ xấu một vài phần trăm có lẽ chẳng bao giờ là điều gây ra bận tâm cho những ai có liên quan.
Số ngân hàng có vấn đề lại là những ngân hàng nhỏ, mà nhóm này, theo cách phân loại của NHNN, chỉ chiếm chưa đến 10% (chẳng biết là 10% của cái gì, có thể là tổng dư nợ chăng?) .

Từ hai yếu tố này suy ra rằng sức khỏe của hệ thống ngân hàng Việt Nam thực ra không tệ lắm, và việc tái cơ cấu, nếu có, thì chỉ diễn ra ở một số ngân hàng nhỏ, yếu, không có mấy ảnh hưởng đến các ngân hàng còn lại. Nói cách khác, tái cơ cấu toàn bộ hệ thống ngân hàng là điều không thích hợp trong hoàn cảnh Việt Nam hiện nay.
Thêm một yếu tố nữa. Hình như tất cả các ngân hàng thương mại Việt Nam đều báo lãi, tuy mức độ ít nhiều có khác nhau.

Kết hợp tất cả các yếu tố trên, có thể suy ra rằng, thứ nhất, tái cơ cấu hệ thống ngân hàng thực ra, nếu cần, thì chỉ là tái cơ cấu một số ngân hàng nhỏ, yếu, và vì thế quy mô tái cơ cấu không thể gọi là lớn được; thứ hai, nếu có phải dùng đến kinh phí để tái cơ cấu thì dùng ngay phần lãi của các ngân hàng có vấn đề, và, nếu không đủ, thì dùng chính vốn chủ sở hữu ngân hàng có vấn đề đó.  Những nguồn kinh phí này chắc là thừa đủ đáp ứng nhu cầu phí tổn, nếu có, cho tái cơ cấu.
Tất nhiên, vấn đề quan trọng cần xét đến là chuyện Chính phủ nói riêng và các nhóm lợi ích nói chung có chịu để các ông chủ ngân hàng tự chặt chân mình như thế này hay không mà thôi, hay cứ muốn phải để dân lành phải gánh chịu thay.

Cũng tất nhiên, nếu con số tỷ lệ nợ xấu thực ra không phải là 3,6% mà là gấp thế 3, 4 lần như các hãng xếp hạng tín dụng nghi ngờ, thì mức độ cần thiết phải chặt hết chân tay, thậm chí cả đầu các ông chủ ngân hàng sẽ còn tăng lên nữa, nhưng chắc cũng chưa đến mức phải chặt thêm cả chân tay của dân lành để thêm vào cho đủ làm kinh phí tái cơ cấu.

1 comment:

Một số nghiên cứu bằng tiếng Anh của tớ

(Một số bài không download được. Bạn đọc có nhu cầu thì bảo tớ nhé)

19. Yang, Chih-Hai, Ramstetter, Eric D., Tsaur, Jen-Ruey, and Phan Minh Ngoc, 2015, "Openness, Ownership, and Regional Economic Growth in Vietnam", Emerging Markets Finance and Trade, Vol. 51, Supplement 1, 2015 (Mar).
http://www.tandfonline.com/doi/abs/10.1080/1540496X.2014.998886#.Ve7he3kVjIU

18. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2013, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', Journal of Asian Economics, Vol. 25, Apr 2013,
http://www.sciencedirect.com/science/article/pii/S1049007812001170.

17. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2011, 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Further Evidence from Vietnamese Manufacturing', ESRI Discussion Paper Series No.278, Economic and Social Research Institute, Cabinet Office, Tokyo, Japan. (http://www.esri.go.jp/en/archive/e_dis/abstract/e_dis278-e.html)

16. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2009, ‘Foreign Ownership and Exports in Vietnamese Manufacturing’, Singapore Economic Review, Vol. 54, Issue 04.
(http://econpapers.repec.org/article/wsiserxxx/v_3a54_3ay_3a2009_3ai_3a04_3ap_3a569-588.htm)

15. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘The Roles of Capital and Technological Progress in Vietnam’s Economic Growth’, Journal of Economic Studies, Vol. 32, No. 2.
(http://www.emeraldinsight.com/journals.htm?articleid=1724281)

14. Phan, Minh Ngoc, 2008. ‘Sources of Vietnam’s Economic Growth’, Progress in Development Studies, Vol. 8, No. 3.
(http://pdj.sagepub.com/content/8/3.toc)

13. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2008. 'Productivity, Ownership, and Producer Concentration in Transition: Evidence from Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2008-04, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2008a_e.html#04)

12. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Employee Compensation, Ownership, and Producer Concentration in Vietnam’s Manufacturing Industries’, Working Paper 2007-07, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html)

11. Ramstetter, Eric D. and Phan Minh Ngoc, 2007. ‘Changes in Ownership and Producer Concentration after the Implementation of Vietnam’s Enterprise Law’, Working Paper 2007-06, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2007a_e.html#06)

10. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2006. ‘Economic Growth, Trade, and Multinational Presence in Vietnam's Provinces’, Working Paper 2006-18, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. Also presented in the 10th Convention of the East Asian Economic Association, Nov. 18-19, 2006, Beijing.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/wp2006a_e.html#18)

9. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, Phan Thuy Nga, and Shigeru Uchida, 2005. ‘Effects of Cyclical Movements of Foreign Currencies’ Interest Rates and Exchange Rates on the Vietnamese Currency’s Interest and Exchange Rates’. Asian Business & Management, Vol. 4, No.3.
(http://www.palgrave-journals.com/abm/journal/v4/n3/abs/9200134a.html)

8. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam's Economic Transition’. Asian Economic Journal, Vol.18, No.4.
(http://ideas.repec.org/a/bla/asiaec/v18y2004i4p371-404.html)

7. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2004. ‘Foreign Ownership Shares and Exports of Multinational Firms in Vietnamese Manufacturing’, Working Paper 2004-32, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. An earlier version of this paper was presented in the 9th Convention of the East Asian Economic Association, 13-14 November 2004, Hong Kong.
(www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2004/2004-32.pdf)

6. Phan, Minh Ngoc, Nguyen Thi Phuong Anh, and Phan Thuy Nga, 2003. ‘Exports and Long-Run Growth in Vietnam, 1976-2001’, ASEAN Economic Bulletin, Vol.20, No.3.
(http://findarticles.com/p/articles/mi_hb020/is_3_20/ai_n29057943/)

5. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2003. ‘Comparing Foreign Multinationals and Local Firms in Vietnam’, Working Paper 2003-43, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

4. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2003. ‘Stabilization Policy Issues in Vietnam’s Economic Transition’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 44 (March).

3. Phan, Minh Ngoc and Eric D. Ramstetter, 2002. ‘Foreign Multinationals, State-Owned Enterprises, and Other Firms in Vietnam’, Working Paper 2002-23, Kitakyushu: International Centre for the Study of East Asian Development. This paper was also presented in the 8th Convention of the East Asian Economic Association, 4-5 November 2002, Kuala Lumpur.
(http://www.icsead.or.jp/7publication/workingpp/wp2003/2003-43.pdf)

2. Phan, Minh Ngoc and Shigeru Uchida, 2002. ‘Capital Controls to Reduce Volatility of Capital Flows; Case Studies in Chile, Malaysia, and Vietnam in 1990s’. Annual Review of Southeast Asian Studies, Research Institute of Southeast Asia, Faculty of Economics, Nagasaki University, Vol. 43 (March).

1. Phan, Minh Ngoc, 2002. ‘Comparisons of Foreign Invested Enterprises and State-Owned Enterprises in Vietnam in the 1990s’. Kyushu Keizai Nenpo (the Annual Report of Economic Science, Kyushu Association of Economic Science), No.40 (December). An earlier version of this paper was presented in the 40th Conference of the Kyushu Keizai Gakkai (Kyushu Association of Economic Science).